Thứ sáu, 19/04/2024,


Chùm thơ dự thi TQVĐP số 65 (22/11/2013) 

Tác giả Lưu Thế Quyền
Hội VHNT Vĩnh Phúc
ĐT: 0979 088 504

Email: luuthequyen@yahoo.com.vn
ĐC: Thanh Lãng, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc

 

VIẾT TỪ THANH LÃNG 
 
Lòng yêu có tự thuở nào
Tình tôi, Thanh Lãng lạc vào bến thơ
Bao nhiêu câu chữ lơ ngơ
Thành tâm ghép lại mộng mơ dâng đời.
 
Và yêu, yêu đến khóc cười
Dẫu trong hay đục vẫn lời thiết tha
Mặn mà Thanh Lãng quê ta
Vít cong tuổi nhỏ cho hoa đương thì.
 
Gọi về nỗi nhớ vân vi
Cái thời đánh đáo, đánh bi đầu làng
Cánh đồng bát ngát mây vàng
Mênh mông nước lại cũ càng - tắm tiên.
 
Chiều về loang khói bên hiên
Tiếng làng Láng* mãi lưu truyền trong nhau
Nặng tình cho tiếng bền lâu
Đi đâu cũng vẫn một màu Láng ta
 
Trọng nghề mộc, vút bài ca
Bàn tay chạm khắc... nâng qua tháng ngày
Rồi mai kinh sử đặt bày
Cũng là từ chỗ nghề này mà nên
 
Lặng thầm Thanh Lãng gọi tên
Suốt đời mắc nợ... đáp đền chưa xong
Câu thơ viết tự cõi lòng
Ước gì hương thoảng thơm trong mọi miền.

L.T.Q

__________
 * Làng Láng là tên viết tắt từ chữ: Ba làng Láng (Xuân Lãng, Yên Lan, Hợp Lễ)


 

Tác giả Nguyễn Hồng Văn
ĐT: 01659543284
Địa chỉ: 37A Thư Trung 2, Đằng Lâm, Hải An, Hải Phòng.
 
  

CHUYỆN CÙNG LỤC BÁT TRONG ĐÊM
 
Xin thưa: Bác Lục Bát ơi!
Có người than Bác khó chơi quá chừng
Đã “vần chân” lại “vần lưng”
Bằng bằng, trắc trắc không ngừng luật chơi!
Người bảo Bác đã lỗi thời
Mấy trăm năm tuổi, liệu người còn xuân…?
 
Đêm nay cháu quyết xoay trần
Tìm vào cửa Bác một lần thăm ngơi.
 
Mừng sao Bác vẫn yêu đời
Vẫn còn sung sức như thời đang xuân
Vẫn còn “vần bụng”, “vần chân”
Vẫn còn đến khắp miền gần, chốn xa.
Ẩn vào từng khúc dân ca
Hết làng Quan họ lại ra chiếu Chèo.
Biên cương, hải đảo, xóm nghèo…
Vần thơ Sáu Tám sớm chiều ngân nga
Hội làng trên khắp quê ta
Thiếu câu Lục Bát quả là mất vui!

Tránh sao sở thích ở đời
Mỗi người tìm một thú chơi, Bác à!

Mặc ai đó bảo Bác già
Với dân Việt, Bác mãi là đang xoan.


N.H.V

 

 

 

Tác giả Nguyễn Minh Khiêm
Khu 2. Thị trấn Quán Lào, Yên Định, Thanh Hóa
 
 

1. HỒI ỨC MỘT CON ĐƯỜNG
Kính tặng Đội TNXP - TN 42 - 12
                          
 
Con đường như dải Ngân Hà
Chúng tôi ngày ấy mở qua bầu trời
Sao là đồng đội của tôi
Tụ về đây suốt một thời trẻ trung.
 
Sức xuân như sức dòng sông
Tháng ngày cuồn cuộn chảy trong con đường
Chúng tôi như lá cây rừng
Một làn gió cả điệp trùng tiếng reo.
 
Chạm vào một tiếng ve kêu
Mồ hôi vọng dội bao nhiêu tháng ngày
Chạm vào ngọn cỏ cành cây
Bao nhiêu sông suối dâng đầy ngày xưa.
 
Rừng già giục gọi rừng thưa
Từ trong khuất lấp nắng mưa hiện về
Khổ kham khi tỉnh khi mê
Chúng tôi cứ rót tràn trề sang nhau.
 
Rót tràn vực thẳm khe sâu
Rót tràn nắng gió đẫm màu thịt da
Rót tràn mỗi đỉnh núi qua
Máu trong nhật ký làm hoa tặng người.
 
Bao nhiêu sức tuổi hai mươi
Chúng tôi rót cả ra nuôi mặt đường
Quánh vào giọt nắng giọt sương
Soi lên lấp lánh nghìn gương mặt người.
 
Thấy cơn sốt nhợt đỉnh đồi
Thấy dòng lũ réo thác nhồi vực sâu
Thấy đêm ra cứu mố cầu
Tay quờ tìm bạn còn đau đến giờ.
 
Bậm môi vào một câu thơ
Cho qua cơn khát xác xơ gió Lào
Cho vách núi dựng đỡ cao
Cho vực đỡ thẳm thung sâu đỡ ghềnh.
 
Cho khuya khoắt đỡ giật mình
Chông gai đá sắc ru lành thịt da
Nỗi niềm đỡ tướp lời ca
Cái măng đỡ đắng cánh hoa đỡ nhàu.
 
Dây rừng cứ bện vào nhau
Khi ốm làm thuốc khi đau làm bùa
Đi qua lúc gió trở mùa
Đi qua khúc ngoặt khúc cua tháng ngày.
 
Ai người ( 42 – 12 )*
Lần theo con chữ về đây nhận mình
Chỗ nào xác lá tơi cành
Xin soi vào để được lành muôn sau.
 
Chỗ nào khuất đáy thung sâu
Xin soi để sáng thành màu hoa xuân
Chỗ nào buốt dưới bàn chân
Xin soi làm tiếng chuông ngân nghĩa tình.
 
Tôi chưng cất thịt da mình
Chảy trên mặt giấy hiện thành ngày xưa
Chữ nào còn khuất trong mưa
Chữ nào trầm tích vọng chưa thành lời.
 
Chữ nào năm tháng đánh rơi
Chữ nào đá lở sông trôi sấm rền
Chữ nào không tuổi không tên
Đồng đội ơi hãy nhìn lên bầu trời.
 
Mỗi vì sao một mặt người
Dải Ngân Hà mãi sáng ngời muôn sau
Chúng mình lấp lánh trong nhau
Một con đường mở giữa bầu trời quê.

­­­­­­­­__________
* Đội Thanh niên xung phong – Tình nguyện (42 – 12) mở đường Hồi Xuân – Tam Chung,

đường Biên Giới Việt - Lào Vẫn gọi tắt là Đội (42 – 12).

 

2. LỜI GIỌT MÁU
 
Xin đừng tạc tượng chúng tôi
Tuổi hai mươi được về nơi màu cờ
Bay cao hơn cả ước mơ
Ngọt thơm hơn cả bến bờ khát khao.
 
Dẫu đi đến tận muôn sau
Trùng trùng khuôn mặt , một màu cờ thôi!
Đã thành vĩnh viễn xuân tươi
Thành phù sa hoá bãi bồi bến quê.
 
Đã thành ngọn cỏ ven đê
Đã thành mạch nước thấm về biển xa
Mấy trăm năm cũng chẳng già
Tuổi hai mươi mãi vẫn là hai mươi.
 
Chỉ xin tạc chỗ mẹ ngồi
Băm bèo, nấu cám, nuôi tôi đến giờ
Quạt mo phảy giấc ngủ hờ
Nhớ con, thức dậy tay quờ rỗng đêm!
 
Quờ vào khúc ruột, khúc tim
Tháng ngày xé nhỏ sức têm thành trầu
Nhai cho mái tóc đổi màu
Nhai cho giông bão tan vào đơn côi!
 
Chỉ xin tạc bạn bè tôi
Những người còn sống, những người khuất xa
Vết thương đầy thịt đầy da
Sống mà chẳng biết là ma hay người!
 
Quên tiếng hát, quên nụ cười
Quên quần áo, quên thời trẻ trung...
Chỉ còn nhớ một dòng sông
Nhớ tên núi Ngọc, núi Rồng, khói hương.
 
Chẳng danh dự, chẳng đồng lương
Chẳng hề chức tước, chẳng thương tật gì
Nhặt sỏi, nhặt đá vứt đi
Cứ tưởng bom phá, bom bi thuở nào.
 
Một mình vẫn cứ lao vào
Che cho đồng đội suốt bao nhiêu mùa
Che con ốc, che con cua
Che hòn đất dưới gốc mua bạc màu.
 
Che quả cau, che lá trầu
Chẳng ai dạm hỏi, đặt đâu cũng già!
Che con tàu mấy mươi toa
Xuyên qua giọt máu lao ra chiến trường
 


3. MƯỜI MÓNG CHÂN MẸ
 
Chẳng còn sức bước ra dồng
Mười móng chân mẹ cái bong, cái nhàu
Dở nghệ, dở gạch, dở nâu
Không nhận ra nổi cái màu tuổi thơ!
 
Hệt như cày cuốc lên bờ
Sứt mẻ mà chẳng bao giờ kêu rên.
Cháu con về chúc Tuổi Tiên
Bánh quà cứ để một bên bần thần.
 
Đi đâu vẫn cứ chân trần
Mười ngón chân bấm lõm gần, lõm xa.
Cái thời chưa biết mình già
Tít mù việc nước việc nhà trần lưng.
 
Mắt thì nửa chợp trên rừng
Nửa chợp dưới bể, nửa lưng chừng trời.
Nón mê quên tuổi mình rơi
Bã trầu ném đất không lời tiễn đưa!
 
Chỉ còn một cục ngày xưa
Chắc như thỏi mực con chưa biết mài!
Chẳng hoa văn, chẳng tượng đài
Dáng rơm dáng rạ mủi ngoài tụng ca!
 
Con đi mấy chục năm xa
Mười móng chân mẹ mở ra hồn làng.
 

 

4. MẮT BÃO 
 
Tả tơi lá
tả tơi cây
Tả tơi tóc
một dáng gầy
tả tơi!
Lũ gào
bão táp
mẹ bơi!
Nước mắt làm mảng
mồ hôi làm thuyền.
Củ khoai
kéo cái nghèo lên
Nón mê
kéo sự bình yên trở về.
Dô huầy!
vượt móng chân khê!
Dô khoan!
vượt sợi tóc bê bết bùn!
Cánh đồng
neo
lưỡi cuốc quằn
Nụ cười
neo
sự nhọc nhằn
trên môi.
Tuổi xuân
Rơi!
Hạnh phúc
Rơi!
Mãi trong mắt bão
mẹ tôi
giữ làng.
 
 

5. LẦN TRÀNG HẠT 
 
Lần tràng hạt lúc giao thừa
Bao nhiêu hạt nắng hạt mưa hiện về
Hạt thì tỉnh, hạt thì mê
Hạt gối núi lửa, hạt kê sóng lừng.
 
Hạt là muối, hạt là gừng
Hạt là chỉ thắm, hạt thừng chăn trâu
Hạt chìm nghỉm dưới bể sâu
Hạt ngang dọc vút giữa bầu trời xanh.
 
Hạt làm cám cũng không thành
Hạt thiên hạ đứng nghiêng mình nam mô
Hạt trong cám dỗ hư vô
Hạt ngoài lạc lối tiền đồ phù du.
 
Mùa xuân lần tới mùa thu
Lần qua giá buốt sương mù mùa đông
Lần từ ngọn gió hư không
Lần sang mống cụt cầu vồng đỏ đen.
 
Dưới hàm sư tử ngồi thiền
Bình yên ngọn cỏ giữa miền bão lay
Vỡ ba trăm sáu lăm ngày
Nến hương trước mẹ một giây xin lành!
 
 

6. BÀN THỀ LŨNG NHAI 
 
Men theo truyền thuyết tôi về
Sáu trăm năm tới Bàn Thề Lũng Nhai
Lọc từ hồn cỏ hồn cây
Lọc qua mưa nắng đất đai hiện lời.
 
Men theo từng tiếng à ơi
Men theo từng mẩu chuyện nơi bản làng
Men theo một chuyến đò ngang
Men theo một ánh trăng vàng bến sông.
 
Cọng rơm gợi một cánh đồng
Tiếng chim gợi mở một vùng xa xôi
Giọt sương gợi mở trùng khơi
Tia nắng gợi mở chân trời bao la.
 
Mỗi một vùng đất tôi qua
Mỗi làng tôi đến mở ra không cùng
Chuyện về Lê Lợi anh hùng
Bao nhiêu giai thoại bao vùng đắm say.
 
Làng nào cũng kể Lũng Nhai
Làng nào cũng kể nơi đây Hội thề
Mừng Người đã hoá hồn quê
Nghĩa nhân cao vợi nhập về lòng dân.
 
Lượi tìm qua mỗi bước chân
Lượi tìm qua mỗi ý gần lời xa
Lượi tìm từ khúc dân ca
Lượi tìm từ khói hương qua thánh thần.
 
Chuyện xa nhập với chuyện gần
Bao nhiêu giông bão, bao lần gió mưa
Tôi mừng gặp được ngày xưa
Tôi mừng gặp được lúc vừa lửa thiêng.
 
Làng Như Áng với núi Miêng
Thung Mi tên cũ vẫn riêng đến giờ
Sông Chu dào dạt vỗ bờ
Núi Cham còn rực rỡ màu cờ Lũng Nhai.
 
Ruộng Bàn Thề vẫn còn đây
Sáu trăm năm được chắp tay lạy Người
Lòng như nắng rạng chân trời
Sông Lương thành mực chép lời nghìn năm.

N.M.K

 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
  Đoàn thị kim trang - Doanthikimtrang@.gmal.net.com - 09631235621 - Xã thanh lãng.huyện bình xuyên. Vĩnh phúc  (Ngày 24/11/2013 20:02:52)

1. Đất Tổ
Vua hùng sinh thời chăm lo.
Muôn dân vun xới trồng ngô dâu tằm.
Tháng năm vất vả ham làm.
Giàu no làng ấp đô thành yên vui.
Đất tốt sinh ra vua hùng.
Người qủa hào phóng ban toàn khắp phương.
Chiếu chỉ tới khắp xóm làng.
Chiêu hiền tài cán trị yên xóm thành.
Đình quê in sắc vua mời.
Toàn dân sức vóc trai làng thí danh.
tới đình thanh lãng là đây.
Bàn mưu hiến kế ghi luận tranh đua.
Nào văn nào võ ấp làng.
Được vài nhân sỹ tỏ ra sứng tài.
Đây vua chiếu chỉ sắc làng.
Từ thời xưa ấy lưu truyền tới nay.
truyền thuyết in dấu ruộng cày.
Vua về làng dạy dân bừa trồng khoai.
Từ ngày đó tới hôm nay .
Thôn xóm tưởng mãi vua hùng linh thiêng.

2.Bài quê tôi.
Làng lúa xóm vải xóm xoài.
Còn thêm cam quýt quanh vườn xum xuê.
Bưởi hồng mộng trái vườn xinh.
Cây cao tỏa mát qủa xô trĩu cành.
Quê ta có tổ vua Hùng.
Thêm dân chịu khó vun trồng sớm hôm.
Tháng ngày vất vả lo toan.
Mừng quê hương mạnh đảng ta chuyên cần.
Toàn dân phấn đấu kiên cường.
Vượt lên đổi mới tới giàu sang trang.
Xây trên quê xóm thôn làng.
Toàn dân ý đảng muôn phần sinh tươi

Đoàn thị kim trang văn thư xã thanh lãng,bình xuyên,vĩnh phúc
doanthikimtrang@gmail.net.com

Các bài khác: