Tác giả Hồng Đức
Tên thật: Nguyễn Minh Đức
ĐT: 0936 818 300
Email: hongduc746@gmail.com
Địa chỉ: Xuân Mai, Chương Mỹ, Hà Nội
1- NON NƯỚC TRÀNG AN
Tràng an non nước mơ màng
Trời xuân sương sớm mênh mang ảo huyền
Thênh thênh nhẹ lướt con thuyền
Qua Động Tối, Sáng lạc miền Động Tiên
Cao cao núi dựng triền miên
Lách Hang Cất Rượu, sang thềm Hang Seo
Động Ba Giọt nước trong veo
Trời in đáy nước, rong rêu dập rờn
Lướt qua Động nước Sơn Dương
Qua Đền Phủ Khống lai vương Động Trần
Em qua Quy Hậu tần ngần
Đất - trời - non - nước giáng trần cảnh tiên.
Hoa Lư nơi ấy - cùng miền
Cố đô gợi nhớ Thánh hiền họ Đinh
Thênh thang riêng một Triều dình
Dựng nền Đại Việt anh minh, sáng ngời
Cho dù vật đổi sao rời
Nước non Nam Việt đời đời nhớ ơn
Em ơi về với cội nguồn !...
2- VỀ MIỀN LỤC BÁT MẸ CHA
Về miền lục bát quê ta
Lời ru còn đọng mái nhà ấm êm.
Mẹ cha như nắng êm đềm
Sáng soi, sưởi ấm suôt miền tuổi thơ.
Không cha không me bơ vơ
Có cha có mẹ, bến bờ bình yên.
Mẹ cha là Phật là Tiên
Vắt trong gian khó gạo tiền nuôi con.
“Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đường đời trăm nẻo phong ba
Khôn ngoan bởi có mẹ cha dẫn đường.
Con người lớn bởi quê hương
Con người phúc bởi tông đường, mẹ cha.
3- VỀ THĂM YÊN TỬ
Ta về cõi Phật Yên Sơn
Vào chùa Bí Thượng thắp hương Phật đài
Đường trần dẫu lắm bi ai
Uống nước Suối Tắm ban mai nhẹ lòng.
Chùa Cầm Thực – tấm gương trong
Cứu nhân độ thế, đói lòng vẫn vui !(*1)
Làng Nương làng Mụ bùi ngùi
Lúa ngô xanh tốt, suốt đời ơn vua
Cung tần mỹ nữ dấu xưa
Nghe người lập ấp bây giờ nên quê!..(*2)
Ngắm đồng Nam Mẫu mải mê,
Miên man tích cũ, chân về Chùa Lân
Uy nghi Thiền viện Trúc Lâm
Cõi linh thiêng gợi cái tâm làm người…
*
* *
Lối đi lá vẫy, hoa cười
Đâu “Đường chín suối” cái thời ngày xưa?
Giải Oan - suối, tự bao giờ?
Bảy trăm năm chảy, tôn thờ lòng trinh.
Thương cho cái kiếp chung tình
Khuyên vua không được, trẫm mình quên sinh(*3)
Hai mươi Tòa Mẫu khắc hình
Nén hương xin tạ hóa sinh kiếp người!...
Đường Tùng râm mát thảnh thơi
Đưa chân ta đến đất trời Hoa Yên
Tháp Tổ sừng sững uy nghiêm
Con xin cúi lạy tượng thiêng Phật Hoàng
Người từng rời chốn cao sang,
Cõi thiêng sáng lập Môn đàng Trúc Lâm.
Luân hồi mới bẩy trăm năm
Ngàn năm dân Việt khắc tâm ơn Người.
Hoa Yên cổ tự muôn đời
Tấm gương đức sáng nhắc người thời nay
Khôn ngoan về tạ chốn này
Bỏ tham,tích đức, ra tay cứu đời.
Trăm năm cái kiếp luân hồi,
Có nhân, có quả - Đạo Trời anh minh !...
*
* *
THác Vàng, Ngự Dội tắm mình
Lên Am Thiền Định niệm Kinh Di Đà.
Chùa Một Mái, dốc Am Hoa
Bóng tùng xanh tựa mái nhà thiên nhiên
Quay về với chốn Am Diêm
Gừng cay, muối mặn, đẹp miền chân tu.
Chùa Bảo Sái - bảy trăm thu
Thờ người tận nghĩa cùng vua nhập thiền
Cũng thành Phật chốn non tiên
Nhắc người đời, sống trung kiên một lòng…
*
* *
Cao cao thấp thoáng Chùa Đồng
Gập ghềnh đá xếp, bềnh bồng trong mây
Cổng Trời, Bia Phật là đây
Bụi trần rũ sạch, ngất ngây cõi lòng…
Dâng hương cầu Phật Chùa Đồng
Đức Điều Ngự Giác(4) rộng lòng từ bi:
Chăm lo dân Việt - độ trì
Cứu khổ, cứu nạn vô vi cõi trần.
Đâu đây trên đỉnh Phù Vân
Hiển linh bóng Phật - Vua Trần Nhân Tông:
Phật khuyên PHẬT ở trong lòng,
Sống sao đẹp Giống Lach Hồng - Việt Nam!...
_______
GHI CHÚ:
(1) Truyện rằng: khi vua Trần Nhân Tông cùng hầu cận Bảo Sai trên đường vào Yên tử đi tu, qua Dốc Cửa ngăn gặp cướp. Vua đã thuyết giáo quy chính họ, còn cho họ vàng bạc và cả xuất cơm nắm nên khi đến chỗ nghỉ đành nhịn ăn, chỗ ấy nay là chùa Cầm Thực. “Cầm Thực” - nghĩa là không ăn.
(2) Truyện rằng: Xưa các cung tần mỹ nữ khi hay tin nhà Vua vào Yên Tử đã theo vào khóc lóc van xin Vua về Triều. Vua khuyên họ về quê làm ăn không được nên cho lập hai làng và đặt tên là làng Mụ và làng Nương tồn tại đến ngày nay.
(3) Truyện rằng: Vua Anh Tông không muốn Vua cha vào Yên Tử, ngầm sai cung tần mỹ nữ tìm đến can ngăn van xin Vua trở về không được. Biết vậy là trái lệnh triêu đình, quay về cũng tội chết nên các cung phi đã trẫm mình quyên sinh để tỏ lòng trung trinh. Sau này Vua cho lập đàn tràng và lập Chùa Giải Oan. Suối Hổ Khê được đổi tên thành suối Giả Oan.
(4) Đức Triều Ngộ Giác là tên Phật của vua Trần Nhân Tông.
4- LỄ HỘI CÔN SƠN
“Côn sơn nước chảy rì rầm
Đâu nghe như tiêng đàn cầm bên tai”*
Uy nghi lộng lẫy đền đài
Vút cao cổng đá bậc dài rừng thông
Đỏ xanh cờ phướn cờ hồng
Thập phương du khách chật đông dâng đài
Con về lễ hội Ức Trai
Danh nhân kiệt xuất, đức tài sáng soi
Hồn thiêng sông núi rạng ngời
“Bình Ngô đại cáo” vang lời tuyên ngôn
Tự hào miền đất Côn Sơn”
“Thiên Tư, Phúc Tự” biết ơn danh thần
“Tứ Linh” “Ngũ Nhạc” “Kỳ Lân”**
Địa linh nhân kiệt trung thần phò Lê
Nỗi đau lịch sử nhớ về
“Lệ Chi” oan án thảm thê tộc nòi
Nhưng rồi trời cũng sáng soi
Anh minh Nguyên Trãi muôn đời tôn vinh…
Thắp hương dâng đức anh linh
Độ trì Nam Việt dân mình ấm êm
Ngàn năm độc lập vững bền
Dân giầu, nước mạnh, văn minh, công bằng!
5- NỖI NHỚ ĐẢO XA
Xuân về Quý Tỵ năm nay
Mưa xuân giăng bụi vương đầy nhành mai
Khôn nguôi nỗi nhớ đến ai
Sóng xuân, đảo nhỏ vỗ hoài biển xanh
Trường sa nhớ lắm, mà anh!
Hoa xuân có nở trên nhành phong ba?*
Xuân sang anh có nhớ nhà
Nhớ mầm sống đỏ đôi ta ươm cùng?
Tân hôn kết tóc, giăng mùng
Trinh nguyên run rẩy thẹn thùng trao nhau.
Gửi anh qua sóng bạc đầu
Tiếng tim thai nhỏ bắc cầu đến anh.
Trường sa - Tổ quốc - biển xanh
Có anh canh giấc ngon lành cho con.
À … ơi…
À ơi ra đảo mà xem
Chồng tôi nắng gió sạm đen canh trời
Cho dù vật đổi sao rời
Yêu anh, yêu đảo suốt đời thủy chung
Mặc cho sóng gió bão bùng
Hậu phương em vẫn dõi cùng bên anh
Gửi anh trong gió xuân lành
Nụ hôn - sóng vỗ yêu anh trọn đời.
6- THĂM QUÊ
(Huyện Cẩm Khê - tỉnh Phú Thọ)
Nửa đời trở lại thăm quê
Mờ xanh sương sớm ven đê sông Hồng
Tháng giêng vương rét cuối đông
Thuyền ai rời bến giữa dòng sang ngang…
Ta về lòng những xốn xang
Qua đò, lại nhớ đình làng mái cong
Đâu rồi những giếng nước trong
Đâu rồi cống đá, chiều dong trâu về
Đâu rồi cái điếm canh đê
Đâu rồi đồi cọ vườn chè năm nao…?
Trằm sâu, vui một thuở nào
Ì oàm mõ dậm, ồn ào hội nơm.
Đâu rồi vàng những cây rơm
Tím hàng mía ngọt, dứa thơm ngày hè
Đâu rồi em gái thôn quê
Gieo thương, đọng nhớ câu thề mộng mơ…
Trầm luân thời cuộc ai ngờ
Hỏi hồn chinh nữ bây giờ nơi đâu?
Hố bom xanh lấp từ lâu
Tấm bia liệt sĩ để sầu cho ai
Khóm hoa bên mộ khoe đài
Dường như em nở nụ cười đón tôi!...
H.Đ
Tác giả Trần Duy Hạnh
Email: onghuugia@yahoo.com.vn
MẸ TÔi
Mẹ già như chuối chín cây
Gió lay trái rụng - Đến ngày mẹ đi!
Lòng con buốt lặng tái tê
Muôn vàn đau đớn nhớ về ngày xưa
Những ngày gian khổ nắng mưa
Đắng cay cơ cực... con chưa biết gì.
Mẹ chăm con lớn, mong khi
Tuổi già được có cậy nhờ cháu con.
Vậy mà mẹ vẫn héo mòn
Lo cho con cháu lại còn hơn xưa...
Xa quê, con ngại gió mưa
Ít về với mẹ, thật chưa nên người
Xót xa nói chẳng nên lời
Ghi lòng công mẹ, thương đời chúng con
Công cha nghĩa mẹ mãi còn
Như biển rộng, như núi non, mây trời
Giờ như thấy mẹ khắp nơi
Lòng thành con viết những lời tri ân...
T.D.H
Tác giả Nguyễn Thị Tác
ĐT: 0373741463
Email: nguyenthitachl04@gmail.com
Địa chỉ: Thôn 4, Hà Lai, Hà Trung, Thanh hóa
1- CON ĐƯỜNG TIN YÊU
Ta tin yêu một con đường
Bác tìm, Đảng chọn - con đường ta đi
Con đường thoát ách sống quỳ
Nước đã độc lập, dân thì tự do
Con đường hạnh phúc ấm no
Non sông liền dải đẹp to đàng hoàng.
Xuân rồi - phường phố, xóm làng!
Mới rồi - nếp nghĩ, cách làm, bước đi!
Đường Bác - Đảng chọn ta đi
Vững vàng bước tiếp thời kỳ dựng xây
Đất đang đổi, đời đang thay
Đường ta đi, mỗi tháng ngày thêm hoa!
Ngại gì thử thách xông pha
Máu xương đã hiến, nữa là gian lao
“Tiến lên! chiến sĩ đồng bào!”
Thềm công nghiệp hóa vẫy chào, vui sao!
Thử thách lớn quyết tâm cao
Đường ta - tình nghĩa đồng bào - ta đi!
2- TU NHÀ
Tu chùa, con cậy mẹ già
Cho con tu chợ, tu nhà, mẹ ơi!
Điều ăn nết ở trên đời
Như mẹ, con khắc ghi lời... từ bi!
3- THÁNH MẪU
Thiên chúa cảm nỗi trần gian
Cô hàng nước cũng chứa chan tình đời!
Hóa sinh... Mẹ của muôn người
Phù minh quân, cứu đỡ người oan khiên!
N.T.T