Thứ sáu, 29/03/2024,


Chùm thơ dự thi TQVĐP số 18 (08/01/2013) 

Tác giả Hoàng Hoa Hùng (83 tuổi)
Chủ nhiệm - Câu lạc bộ Thơ huyện Hà Trung, Thanh Hóa
ĐT: 0943931072

visa nhap canh

1- NH QUÊ
 
Quê em ven dải sông Lèn
Gác chuông chùa đó, ngôi đền Lý đây (1)
Núi đền Cây Thị vờn mây
Chợ Chiềng xuôi phố, tiếp cây cầu Lèn
Ngưỡng Sơn, Linh Xứng cửa thiền (2)
Thiền sư Mãn Giác tạo nền từ xưa (3)
Cảnh đền Cây Thị mộng mơ
Thiên Sơn, Thoải Mẫu cùng thờ phụng chung.
Ngọn cờ đổi mới tưng bừng
Đang đem sức mạnh đến từng người dân
Xa rồi kẽo kẹt đôi chân
Đường lầy, ngõ tối, rêu sân, vách bùn.
Xa rồi bao cảnh cơ hàn
Quê em nay đã như ngàn đóa hoa
Đường làng ngõ xóm vào ra
Bê tông sạch đẹp, đài loa rộn ràng
Nhà cao trường học sang trang
Xã chuẩn Ytế, ngày càng nâng cao
Đêm ngày có điện vui sao
Thay người, sức máy đưa vào thôn trang
Tam nông phối hợp nhịp nhàng
Ô tô, xe máy nối hàng vào ra
Người đi dù ở nơi xa
Nhưng lòng luôn hướng quê nhà đổi thay
Tìm về bến nước nơi đây
Nhớ câu thơ “níu váy bà” ngày xưa.(4)
 
__________
1: Gác chuông chùa Trần xã Hà Ngọc huyện Hà Trung nơi thành lập chi bộ  Đảng đầu tiên ngày 10/10/1930 nay là Đảng bộ huyện Hà Trung.
2: Ngưỡng sơn có chùa Linh xứng.
3: Mãn Giác thiền sư là người đươc Lý Thường Kiệt mời vào xây dựng và trụ trì tại chùa Linh Xứng từ thế kỷ thứ 11).
4: Trong bài thơ ĐÒ LÈN của nhà thơ Nguyễn Duy viết về bà ngoại tại xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung.
                                                                                                                                                                                                                                                                                              

2- ĐỀN HÀN SƠN

 


Thác reo như tiếng hát ca
Cành sung vươn trải la đà vờn sông
Tán cây trùm kín một vùng
Hương trầm ngan ngát gợi lòng vấn vương
Tâm linh huệ trắng thoảng hương
Giọng chầu văn, dẫn nẻo đường đồng cô
Nao nao điệu múa chèo đò
Đàn nguyệt nhộn khúc, đón cô thượng ngàn
Vui thay trẩy hội Đền Hàn
Núi cao thác dội, non ngàn mộng mơ
Cậu Hoàng, cô Chín, cô Bơ
Ba, năm, bảy giá đồng vô một người
Chuông ngân vọng mãi lưng đồi
Thác reo vang khúc nhạc trời ngàn thu
Rừng cây rộn tiếng chim gù
Hàn Sơn tâm phúc trung du hữu tình
Bốn phương quy tụ quê mình
Hàng năm tháng sáu, tâm linh Đền Hàn
Cầu mong quốc thái, dân an
Dân giầu, nước mạnh, giang san thái bình.
 
 
 

3- ĐỪNG QUÊN
(Hoài niệm về cảnh thôn làng cũ)


Đâu còn “tắc vạt” theo trâu
Đâu còn “lộn rạ” đồng sâu mỗi mùa
Đâu còn mò tép, bắt cua
Đâu còn tát nước giữa trưa nắng hè
Đâu còn kẽo kẹt giắng tre
Đôi vai năng chĩu, giữa hè chói chang.
Nhớ đêm “tiếng kẹp” rộn ràng
Áo anh ướt sũng, trăng vàng sấy khô
Bên nhau gò duối cạnh hồ
Trăng vàng soi bóng chàng- cô tâm tình.
Nay quê thay đổi dáng hình
Máy thay “tắc vạt” dân mình khỏe hơn
Máy bơm đầy nước mương trơn
Dẫn từng cánh ruộng, lúa chùm cỏ năn
Giắng tre, tay kẹp, trục lăn
Thành vật lưu niệm, làm ăn một thời
Công nông, xe tải đổi đời
Đường bê tông đẹp, xe người vào ra
Vang ngân giọng hát câu ca
Từ trong băng đĩa bay ra khắp làng
Ti vi, điện thoại rõ ràng
Có nhà văn hóa khang trang đón mời.
Gò tre, gốc duối hết thời
Nay tình lớp trẻ sáng ngời công viên
Đời nay nhiều cảnh đẹp thêm
Nhưng vẫn từ gốc của nền nếp xưa
Tri tân dù mấy chưa vừa
Vẫn nên hoài niệm chuyện xưa thôn làng
Dù cho đổi mới sang trang
Quê hương chốn cũ, sử vàng đừng quên  .
 
H. H. H

Tác giả Võ Khoa Châu
ĐT: (058) 3 841215 – 01663512731
Địa chỉ: Tổ 2, thị trấn Vạn Gĩa, Vạn Ninh, Khánh Hòa

1- HOAN CA GIỮA ĐỜI THƯỜNG

                                                                     

Vòng tay trần thế âm dương
Ôm thân giả tạm vô thường biển dâu
Núi sông mà núi sông đâu
Thỉ chung hun hút xưa sau u huyền
Người ngồi phú lạc vô biên
Một thân chẳng phải đâu riêng một mình
Ngập tràn hiện diện trăng hiên
Gió thuần khiết thả tuyệt nhiên tự tình
Chánh tri hiện hữu hòa minh
Định thiền tự vấn đáp trình thưa ta
Xét soi rọi tấm thân hoa
Không tôi và cũng không là của tôi
Thanh xuân vó ngựa lũng đồi
Tóc xanh bỗng chốc mây côi cút màu
Làm người sửa soạn trước sau
Nghiêm trang mở cửa nhiệm màu Như Lai
Được ban Huệ Phúc đêm ngày
Sáng soi nhật nguyệt vòng quay đất trời
Ở ăn chớ bạc như vôi
Hãy ban Thức uẩn cẩn lời tín hương
Ứng thân của Phật mười phương
Cho Tâm viên mãn thể trường xuân niên
Vô minh ràng trói trược phiền
Lòng ưu tư mắc thân điên đảo cài
Rèm trong đọa nhụy hoa phai
Áo xiêm hời hợt tóc cài lả lơi
Rập ràng ong bướm làng chơi
Thỏa thuê tay mỏi trận cười nhức vai
Phố ngoài rả rích trần ai
Ngửa tay hiu hắt đợi dài giọt mưa
Gậy còm chống hạt cơm thừa
Chiếc thau già đựng ơn mùa cút côi
Vào - ra - sinh - tử - lở - bồi!
Hốt nhiên nằm xuống bên đồi trăng phai
Trăm năm là mấy ngày mai
Đã khi nhật dạ nghiệm bài sinh ly?
Nổi trôi giữa cuộc thịnh suy
Hỡi con sông rẻ nhánh đi mấy đường
Trăng nằm đáy nước Nguyệt khuôn
Một vành tươi tắn sáng luôn dịu hiền
Trên trời Nguyệt bạch thanh thiên
Dưới ao trăng vẫn trinh nguyên cát tường
Hãy hoan ca giữa đời thường
Phối âm vào khúc phụng hoàng cưỡi mây
Nhà cao tiền khẳm vàng đầy
Chí cùng hạt nút chẳng cài liệm quan
Lừa chi bể ái đa mang
Ngoa ngôn lộng ngữ dối gian mị lời
Đã sinh được kiếp làm người
Tương quan là phép thưa mời đãi nhau
Nghèo nàn hay được thịnh giàu
Ngẫm suy như ngọc trắng phau cát lầm.
 
 

2- NIỀM HOAN HỈ CÔNG MINH                                                                                                                          

Xuân về mẩy lộc non tơ
Tiếng chim gọi bạn đợi chờ chon von
Bướm vàng đậu ngọn cỏ non
Chuồn chuồn đảo cánh bay vờn mái tranh
Khói rơm ấm áp quyện xanh
Bên hiên cau khuất nửa vành trăng thâu
Chín chiều đợi phía ngỏ sau
Cha về chiếc áo bạc màu cần lao
Mẹ ru cánh nắng lao xao
Trâu về rung mỏ đồng dao cuối đường
Thanh bình dạo ngỏ thôn hương
Nghe chuông hoằng pháp diệu thường ngân nga
Niềm ân thưởng tựa ngọc ngà
Ngày vui kiệm ước la đà quanh đây
Trời cao gió lộng mây bay
Ta ngồi dưới bóng mát cây bồ đề
Mây trôi nước chảy nhiêu khê
Sông mòn đá cạn lời thề thốt yêu
Chiều lên theo tiếng cuốc kêu
Đêm về quạnh quẽ gió hiu hắt buồn
Lặng nghe tiếng nước đầu nguồn
Chảy từ vô thỉ vô chung chảy về
Hoa tàn rụng nẻo sơn khê
Báo mùa ly biệt dặm về nào hay!
Cánh cò vỗ nắng chiều lay
Túi thơ lồng lộng đựng đầy HƯ KHÔNG
Ân cần hối quá viên thông
Thân là nghiệp dĩ bụi hồng đất nâu
Trong ba đường dữ vì đâu
Do thân khởi nghiệp vọng cầu mà ra
Tạo một nghiệp đã bao la
Huống chung thân ác. Biết là nơi nơi!
Ngày phai nắng nhạt chiều vơi
Thân này đau khổ biết người khổ đau
Cầu mình nhàn nhã thanh cao
Cầu người được phúc lạc giàu tình thương
Một câu khiêm tốn nhún nhường
Một lời trừ đoạn khổ đường kiết oan
Vì nhân duyên có nghiệp thân
Mà sinh thù oán si sân lần hồi
Nguyện nhờ huyền lực độ soi
Hàm sinh hoan hỷ trong ngoài công minh

V.K.C


Tác giả Trần  Mỹ
 
ĐT: 064.342.298 – DĐ: 0918.004.924
Email: hoanmy123@yahoo.com
Địa chỉ: 286/19 Lê Hồng Phong, TP Vũng Tàu.

1- TAM CƯƠNG NGŨ THƯỜNG

Mẹ cha dương dục áo cơm
Sinh thành thai nghén công ơn biển trời
Thầy cô dạy đạo làm người
Chăm lo chữ nghĩa sáng ngời tương lai
Ơn cha- mẹ. Ơn cô-thầy
Núi cao biển rộng, sông dài bằng đâu
Lớp người trước, lớp người sau
Ai ai cũng đội trên đầu hiếu sinh
Ở ăn trọn nghĩa, trọn tình
Thờ cha kính mẹ gia đình ấm êm
Thầy cô công cả khó đền
Tam cương xin nhớ, trọn duyên ngũ thường. 
 
 
 

2- LÒNG DÂN – Ý ĐẢNG

Mẹ sinh cha dưỡng nên người
Từ tâm đạo Phật, lẽ trời ban cho
Tay lần hạt, niệm nam vô
Tiếng chuông thức- tiếng mõ khua răn lòng
Ai người con cháu Lạc Hồng
Noi gương từ đứng Nhân Tông áo bào.
Dân là huyết mạch, máu đào
Từ tâm cứu khổ, dạt dào tình thương
A Di Đà Phật thập phương.
Cầu cho dân, nước luôn luôn thái bình
Trọn đời niệm Phật, cầu kinh
Từ bi hỉ xá chúng sinh nhiệm mầu
Việt Nam núi biển liền nhau
Lòng dân- ý Đảng trước sau vẹn tròn.
 
 
 

3- CẦU MONG
 
Cất lên tiếng khóc chào đời
Ông mừng, cha sướng, bà cười, mẹ vui…
Chấp tay niệm Phật, cầu trời
Trông con khôn lớn thành người từ tâm
Trung với nươc, hiếu với dân
Thương người như thể thương thân của mình
Từ bi Phật dạy chúng sinh
Trăm năm tích đức để giành đời sau
Không chém giết, không lợi cầu
Không ranh ma để làm giàu vinh thân
Tu cho trọn kiếp dương trần
Để mong Quốc thái và dân an bình.
 
 

4- NƯỚC NON

Bút thơm hoa sử Việt Nam
Linh thiêng rực sáng muôn vàn lòng dân
Đạo đời truyền dạy chữ nhân
Gìn đức, giử nghĩa nhân tâm làm người.
Tham-sân-si nặng kiếp đời
Hoa Đàm, Đuốc Tuệ sáng ngời vô vi
Xóa thù hận, niệm A Di
Thành tâm lần hạt- từ bi nhịp chày.
Để cho thiên hạ tháng ngày
Bình an khang thái hết đày đọa nhau.
 
 


5- TRÚC LÂM- THIỀN VIỆN


Khách du về với Trúc Lâm
Lưng lưng trút sạch bụi trần phiền ưu
Rừng thông, suối thác sớm chiều
Trời xanh bất tận nhịp kiều thiên thai
Cỗi nguồn ai đón tìm ai
Tiếng chuông ngân vọng, lòng tôi dật mình
Xa cơn tình mộng, hoảng kinh
Lìa cơn bể ái quy mình Như Lai
Giửa nơi trùng điệp suối dài
Rửa sao cho sạch, để đời sạch trong
Mây hồng ngũ sắc thiên cung
Nam vô Bồ Tát sen hồng thiên thai.
Linh thiêng xin thấu đơn côi
Để đời thanh thản giửa đồi thông mơ
Phong trần xóa sạch bụi mê
Ngàn năm vẫn nhớ đường về Trúc Lâm.

T.M
Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
Các bài khác: