Nhạc sĩ Đặng Thế Phong sinh năm 1918 trong một gia đình công chức ở Thành Nam, cha là ông Đặng Hiển Thể, thông phán Sở Trước Bạ thành phố Nam Định, là con thứ hai của một gia đình có sáu anh chị em, hai trai bốn gái. Thân phụ mất sớm, gia đình thiếu thốn, ông phải bỏ dở học vấn khi đang học lớp 2ème année P.S. Ông có lên Hà Nội theo học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương với tư cách bàng thính viên. Ông vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ bút là Phạm Cao Củng) như truyện bằng tranh Hoàng Tử Sọ Dừa, Giặc Cờ Đen để lấy tiền ăn học. Mùa xuân năm 1941 ông có đi Sài Gòn rồi
Đặng Thế Phong là người Thành Nam, nơi đây cũng là quê hương của những nhạc sĩ tài hoa đầu tiên của tân nhạc: Đan Thọ, Bùi Công Kỳ (1919), Hoàng Trọng. Cùng thời với ông là các nhạc sĩ tên tuổi khác: Nguyễn Xuân Khoát (1910), Văn Chung (1914), Nguyễn Văn Thương (1919), Lê Yên(1917), Lưu Hữu Phước (1921), Đỗ Nhuận (1922), Phan Huỳnh Điểu (1924)… Chính lớp nhạc sĩ thế hệ thứ nhất này đã đặt nền tảng cho nhạc Việt qua các tác phẩm danh giá; và sự nghiệp sáng tác của họ đã bắc cầu nối dài từ thời Tân nhạc lãng mạn (Trước 1945) cho đến giai đoạn của nhạc hùng ca rồi lãng mạn cách mạng (1945-1954) đến hiện thực cách mạng (1954-1975), tạo ra một di sản âm nhạc quý báu mà nổi bật nhất là giá trị tư tưởng - lịch sử và nét văn hoá đặc thù Việt Nam.
Cha mất sớm buộc Đặng Thế Phong phải sớm tìm con đường mưu sinh: vừa đi học, vừa vẽ thuê kiếm sống. Mới hơn hai mươi tuổi đầu đã lang thang nơi đất khách quê người tận xứ Nam Vang làm đủ thứ nghề vẽ thuê, dạy nhạc để sống, để học và để sáng tác. Năng khiếu bẩm sinh về âm nhạc cho phép Đặng Thế Phong có thể vừa ôm đàn, vừa sáng tác, vừa biểu diễn tác phẩm của mình với chất giọng tenor rất đặc biệt.
Cuộc đời của ông rất long đong, dở dang việc học, sống lang bạt kỳ hồ với nhiều nghề khác nhau: dạy nhạc, vẽ tranh cho báo, ca sĩ… Ông lang thang từ Nam Định lên Hà Nội, trôi dạt vào Sài Gòn, rồi qua Nam Vang, trước khi quay trở về Hà Nội và qua đời vì bệnh lao, trên căn gác số 9 phố Hàng Đồng, Nam Định vào năm 1942, sau khi viết xong bài hát sầu não nuột như chính cuộc đời mình: Giọt Mưa Thu. Ông mất vì bệnh lao do cuộc sống nghèo khổ, lao lực và bôn ba.
Bàn về tác phẩm của ông, mọi người đều thừa nhận rằng ông thuộc lớp các nhạc sĩ tiền phong của âm nhạc lãng mạn Việt với những bản tình ca đầu tiên trong lịch sử rồi sẽ được nhiều nhạc sĩ sau này phát triển trong các dòng chảy tình ca khác.
Nếu như ở bản nhạc đầu tay ”Đêm thu” còn mang nặng những âm giai Tây - mặc dù ở phần hai của ca khúc này ông có đưa ngũ cung Việt vào như một kiểu hợp hôn - thì ở bài hát tiếp theo”Con thuyền không bến”, sự kết hợp giữa thất cung và ngũ cung mới đạt đến độ chín của tài hoa.
Ngũ cung trong bài này viết theo lối hát sa mạc (bởi thế nghe buồn xa xăm): mi mi mi mi là rề mi (đêm nay thu sang cùng heo may), la la la la mi sol la (đêm nay sương lam mờ chân mây)… lung linh đứng bên cạnh những âm điệu Tây phương với những bán âm chênh vênh: la si la đố si la mi (thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng)… Những âm điệu này được ông lồng vào những lệch phách, đảo phách (syncope) của lối hát ả đào thật lửng lơ.
Thật ra đâu phải đợi đến bây giờ mà ở Đặng Thế Phong đã có sự 'đông tây giao hoà' rồi, đó là điều các nhạc sĩ đương đại trên thế giới như Olivier Messiaen, Claude Debussy… đã từng làm trong cuộc hành trình âm nhạc chinh phục những âm điệu châu Á của họ. Có lẽ đây chưa hẳn là do ý thức học thuật gì cao thâm mà theo tôi, chính tâm hồn và văn hoá rất Á Đông, rất Việt của Đặng Thế Phong đã làm nên sự hoà quyện tự nhiên và thú vị đó!
Phong cách sáng tác này được ông tiếp tục trong ca khúc Giọt mưa thu. Nghĩa là thất cung kết hợp nhuần nhị với ngũ cung, nhưng trong bài này, ông viết có học thuật hơn khi ứng dụng kỹ thuật métabole (chuyển hệ) làm cho âm điệu bài hát trở nên nhiều màu sắc hơn. Bài này, hồi mới lớn cứ mỗi khi mưa, tôi lại bật máy cassette lên nghe, nhất là những đêm mưa nỉ non rơi không nhỏ không to, nghe hoài băng nhão khiến bài hát nghe càng… não nề, nghe mưa như thê thiết hơn.
Đặng Thế Phong có mặt trên cuộc đời này quá ngắn ngủi. Ông xuất hiện như một chớp sao băng với một sự nghiệp ít ỏi nhưng có giá trị lớn và vững bền. Ở thời kỳ của ông, khi các tình ca khác còn nói chuyện mây gió hoa lá thì nhạc của ông đã đi vào thân phận và tâm hồn một cách sâu sắc với bút pháp lãng mạn và u sầu. Tưởng như buồn chôn hết cả nỗi buồn trong đó.
Cũng như Vũ Trọng Phụng, phải mãi sau này khi làn gió đổi mới đến với đất nước ta thì các nhạc phẩm nổi đình đám một thời của Đặng Thế Phong và các nhạc sĩ tiền chiến khác mới được đánh giá một cách đúng mức trong kho tàng lịch sử âm nhạc Việt Nam mặc dầu từ rất lâu rồi nó đã có chỗ đứng vững chắc trong lòng người hâm mộ.
Cũng giống như Nguyễn Đình Thi, chỉ với hai bài hát cách mạng 'Diệt phát xít' và 'Người Hà Nội', ông đã là một nhạc sĩ nổi tiếng bậc cao thủ trong giới nhạc sĩ Việt Nam đương đại.
Đặng Thế Phong cũng vậy. Chỉ với ba bài hát 'Đêm thu', 'Con thuyền không bến' và 'Giọt mưa thu', ông đã là nhạc sĩ có một không hai gắn liền tên tuổi bất hủ của mình với mùa thu. Xem thế đủ biết không phải cứ đẻ sòn sòn đã là hay. Vấn đề là ở chỗ ít mà tinh, mà để đời.
Theo các bạn bè và bà Đặng Thanh Kim, em út của Đặng Thế Phong thì ông là một thanh niên rất điển trai, hoạt bát, thích ăn diện, ăn nói rất có duyên lại giỏi đàn hát nên được rất nhiều cô gái thành
Trong số đó có ba cô lọt vào mắt xanh chàng trai trẻ đa tình. Đó là cô Hà Tiên, học sinh Trường Sarcree coeur Nam Định; cô Nguyễn Thị Na, tức Lê ở khu Ga Hải Phòng; và cô Bạch Yến ở Hàng Bông, Hà Nội.
Trong ba cô thì Bạch Yến xem ra nặng tình hơn cả bởi cô là người chăm sóc và tiễn đưa Đặng Thế Phong đến nơi an nghỉ cuối cùng và buồn thay cuộc đời của cả ba người đều lỡ dở.
Đặng Thế Phong viết 'Đêm thu' năm 1940. Ca khúc này ông viết và biểu diễn ở những đêm lửa trại, lời ca được nhiều bạn bè đóng góp chỉnh sửa nên rất trong trẻo hồn nhiên, thể hiện nỗi đam mê của con người trước thiên nhiên và cuộc sống. Ngay lập tức bài hát được giới trẻ hưởng ứng nhiệt liệt. Song phải đến 'Con thuyền không bến' viết vào tháng 9/1941 sau khi nhạc sĩ đi
Hôm đó tại Nhà hát Lớn Hà Nội, ca sĩ Vũ Thị Hiển lần đầu tiên hát ca khúc này đã làm xôn xao dư luận. Sau đó chính tác giả đã trình bày bài hát này tại rạp Olimpia ở phố Hàng Da thì công chúng Hà Nội càng thêm mến mộ một tài năng. Không chỉ bởi chất giọng của người nhạc sĩ kiêm ca sĩ mà bởi chất thơ nhuần nhuyễn trong từng giai điệu và lời ca thẫm đẫm chất thu:
Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng
Như nhớ thương ai chùng tơ lòng.
Có một điều rất khó lý giải là tại sao ở cái tuổi mới hơn hai mươi mà Đặng Thế Phong lại nhuần nhuyễn từ ca từ đến làn điệu thấm đẫm chất dân ca đồng bằng Bắc Bộ như vậy.
Lướt theo chiều gió. Một con thuyền theo trăng trong.
Giai điệu này lặp đi lặp lại nhiều lần như một điểm nhấn, nó nghe như một làn điệu dân ca mơ hồ, chầu văn hay chèo nào đó.
Cũng lạ, trong lúc âm nhạc Pháp đang tràn ngập Việt Nam, tâm lý hướng ngoại đang là 'mốt' trong giới trí thức, những đĩa hát tango chinoise 78 vòng/phút đầy chất lính kèn lê dương, phong trào tân nhạc chủ yếu là đặt lời cho các bài hát tây thì nhạc phẩm của Đặng Thế Phong lại thấm đẫm tâm hồn Việt…
Năm 1942, Đặng Thế Phong viết 'Vạn cổ sầu', sau Bùi Công Kỳ sửa lời và đặt tên mới là 'Giọt mưa thu'. Đây là giai phẩm thứ ba của Đặng Thế Phong và lại có chủ đề là mùa thu:
Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi
Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi.
Giọt mưa thu rơi thánh thót. Thật không có hình ảnh nào sống động chính xác hơn. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, người ta vẫn ví những khúc ca lộng lẫy đó như là 'hoa hậu' của ca từ âm nhạc hiện đại Việt
'Giọt mưa thu' là một nhạc phẩm song cũng là một mảng tâm hồn của con người. Nó như một lời ru kỳ diệu đưa hồn người hòa đồng vào các cung bậc cảm xúc đầy sắc màu của thiên nhiên, nó như giãi bày hộ nỗi buồn nhân thế đang mong được giải tỏa.
Một tiếng tơ lòng cất lên mỏng manh như tâm hồn người nghệ sĩ.
Đã bao năm rồi, đã có biết bao thế hệ người Việt
Ai nức nở thương đời
Châu buông mau, dương thế bao la sầu.
Sự tích Ngưu Lang - Chức Nữ chia xa, mỗi năm được gặp nhau một lần ngắn ngủi, nước mắt của tình yêu và nỗi nhớ giội từ trên trời cao xuống hiu hắt lắng đọng từ cõi vô biên, phải chăng đó là chất xúc tác để chàng nghệ sĩ họ Đặng cảm xúc cất lên những âm thanh siêu ảo vượt lên nỗi buồn thế tục, phải chăng giọt mưa thu chính là thiên sứ của tình yêu đã được nhân cách hóa một cách tài tình.
Hãy thử tưởng tượng trong một ngày mưa thu rơi thánh thót ngoài hiên, tiếng vĩ cầm cất lên réo rắt những giai điệu như nức nở của giọt mưa thu của Đặng Thế Phong, người ta có cảm nhận như đâu đây tiếng lòng thổn thúc của thơ Verlain, hay tiếng nhạc buồn của Chopin, hay những cánh lá vàng trong bức tranh 'Mùa thu vàng' của Levitan. Thiên nhiên và lòng người hòa quyện một cách tài tình trong bàn tay sáng tạo của người nghệ sĩ.
Chỉ với ba nhạc phẩm thôi, Đặng Thế Phong đã là một hiện tượng trong lịch sử nền âm nhạc Việt
Qua lá cành ánh trăng lan dịu dàng
Ru hồn bao nhớ nhung.
đến 'Con thuyền không bến' mộng mơ:
Ánh trăng mờ chiếu.
Một con thuyền trong đêm thâu
Trên sông bao la thuyền mơ bến nơi đâu?
đã là một bước chuyển rất lớn trong tâm hồn người nghệ sĩ.
Đến 'Giọt mưa thu': Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu ai khóc ai than hờ.
Có thể thấy Đặng Thế Phong đã hóa thân vào tiếng thu lòng thổn thức một cách tài tình như thế nào.
Trong số những người bạn học thân của Đặng Thế Phong hồi thiếu thời ở
Đã mấy thu rồi xa cách lắm
Mấy lần thu tới mấy thu đi
Bạn ơi! Có biết thu này khác
Trăng úa bên rừng khóc biệt ly!
Cũng lại ý tứ mùa thu. Phải chăng hai người bạn nối khố này rất đồng cảm với nhau. Năm 1945 ra tù tham gia cướp chính quyền ở Nam Định, ông Oong đã đến ngay gia đình Đặng Thế Phong và còn giữ nhiều tấm ảnh quý về gia đình họ Đặng này. Ông nói: 'Nếu tôi không bị đi tù thì tôi không để cho Phong đi Campuchia và ốm đau bệnh tật như thế!'.
Cả ba ca khúc của ông đều viết về mùa thu và hai trong số đó Con thuyền không bến và Giọt mưa thu được xếp vào những tác phẩm bất hủ của âm nhạc Việt
Thoắt đấy mà đã chín chục năm ngày sinh của một nhạc sĩ tài hoa nhưng đoản mệnh. Hôm qua chúng ta đã hát những ca khúc buồn của ông, hôm nay chúng ta tiếp tục hát những ca khúc của ông nhưng với một tâm thế khác. Ngày mai cũng vậy. Bởi lẽ đó là những ca khúc bất hủ của một tài năng đích thực. Tuy chỉ mang đến cho tân nhạc Việt vỏn vẹn 3 ca khúc: Đêm thu, Con thuyền không bến, Gịot mưa thu (tức Vạn cổ sầu), nhưng hai trong số ba bài đó đều xứng đáng là những kiệt tác bất hủ của tình ca Việt. Ông chỉ viết được ba bài vì ông chỉ sống với nhân gian 24 năm! Câu nói ”tài hoa yểu mệnh” ứng nghiệm vào Đặng Thế Phong không sai một ly.
Trần Hồng Giang
(Tổng hợp từ các tư liệu và báo chí)
------------
Nghe các tác phẩm của nhạc sỹ Đặng Thế Phong tại đây:
http://www.nhacso.net/Music/Song/?Composer=100002938