I. Vài nét về tác giả
Nhà thơ Trần Nhuận Minh sinh ngày 20/8/1944, quê ở làng Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Ông đã tốt nghiệp khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, là hội viên Hội Nhà văn Việt
Ủy viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt
Hiện đang sống và viết tại TP. Hạ Long - Quảng Ninh.
Từ năm 1962 đến 1969, ông dạy học cấp II tại khu Hồng Quảng rồi tỉnh Quảng Ninh.
Từ 1969 đến 2005, ông công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh, từng làm Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Hội VHNT tỉnh, Tổng biên tập báo Hạ Long.
Tác phẩm văn học
Ngoài 3 tập văn xuôi, ông có các tập thơ sau:
- Đấy là tình yêu (1971);
- Âm điệu một vùng đất (1980);
- Thành phố bên này sông (1982);
- Nhà thơ áp tải (1989);
- Hoa cỏ (1992);
- Nhà thơ và hoa cỏ (1993);
- Giọt phù sa vạn dặm (2000);
- Bản Xônat hoang dã (2003);
- Thơ với tuổi thơ (2003);
- Gửi lại dọc đường (2005);
- Tuyển thơ 1960 – 2003 (2005);
- 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007);
- Miền dân gian mây trắng (2008);
- Bốn mùa (song ngữ Việt Anh 2008).
Giải thưởng
Ông đã được tặng Giải thưởng Nhà Nước về Văn học Nghệ thuật và 18 giải thưởng văn học khác của các bộ ngành Trung ương và địa phương.
II. Thi phẩm lục bát
Nguyễn Du
Đến đâu con cũng gặp Người
Xin dâng chén rượu giữa trời Trung Hoa
Hạc Vàng một bóng Lầu xa
Hồ Nam úa ráng chiều tà hanh heo
Tiệc to thường ở nơi nghèo
Đồng ngô khô xác, mái lều gió lay…
Người xưa đi sứ qua đây (1 )
Bùn lưng bụng ngựa, sông đầy thuyền trôi
Cỏ cây, thành lũy khác rồi
Hoàng Hà đã cạn, thơ Người vẫn sâu
Thời nào thì cũng như nhau
Nỗi buồn li biệt, nỗi đau dối lừa
Tiền Đường sầm sập đêm mưa
Nước âm u chảy như chưa vớt Kiều ( 2 )
Nghiệp Thành còn tiếng quạ kêu ( 3 )
Lâm Tri bến cũ, cầu treo rực đèn
Sắc tài chi để trời ghen
Người đâu phải nước đánh phèn cho trong
Cõi đời đâu cũng long đong
Văn chương bạc phận, má hồng vô duyên
Bời bời những cuộc đỏ đen
Chính trường sấp mặt, đồng tiền xoay ngang…
Đặt chân lên đỉnh Thiên Đàn
Bốn bề mây trắng thu vàng lá rơi
Bâng khuâng, con lại thấy Người
Vái Người, con đứng ngang trời Trung Hoa…
Cố Cung, 21-9-1999
__________
( 1 ) Năm 1813 - 1814, Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc.
( 2 ) Thúy Kiều ( trong Truyện Kiều ) trẫm mình ở sông Tiền Đường.
( 3 ) Nơi đóng đô của Tào Tháo thời Tam Quốc.
Hoa trắng
Giâu gia hoa nở bao giờ
Sớm nay bỗng thấy bất ngờ hương bay
Bấy giờ mới ngước lên cây
Từng chùm hoa nhỏ thơ ngây dịu dàng
Lúc đầu hoa lấm tấm vàng
Đến khi trắng muốt là tàn mất hoa
Có gì muốn nói với ta
Nhưng chưa nói được thì hoa lìa cành
Bước đi, chậm, nhẹ, chứ anh
Vùng than đen, trắng những nhành hoa rơi…
(Bồ Hòn 2 – 1970)
Bên dòng tục ngữ
Bông hoa nào có nói gì
Gần cây thì có lạ chi bóng cành
Đàn bà ưa đứa tinh ranh
Thánh nhân thích đãi những anh khù khờ
Kẻ khôn sẽ dại bất ngờ
Trước chê trời thấp bây giờ đi khom
Gỗ vuông đẽo chẳng nên tròn
Mèo già trông thấy chuột con, thì chào…
(Vũng Tàu 5 – 1992)
Nghìn xưa
Kiễng chân chẳng với tới trời
Vật nhau với thú thì người sẽ thua
Nửa đời tìm nắng trong mưa
Nửa đời đi tới cái chưa có gì
Mỗi ngày một cuộc chia li
Yêu em lúc trẻ, gặp khi đã già
Nghìn xưa hoa vẫn là hoa
Chớ mong trời sập để mà bắt chim…
(1 - 2000)
Trong đồng cỏ hoa vàng
Cỏ hoa, vàng đến cuối trời
Không dưng mà hóa ra người lẳng lơ
Tìm ai trong cõi chờ xưa
Gió trăng trăm tuổi, già nua một thì
Thực ra, tôi chả tìm chi
Yêu em cứ rẽ lối đi lên trời
Yêu hoa cứ đến với người
Nào tôi có biết rằng tôi biết gì
Hoa vàng nở hết mình đi
Nghe đâu tuyết trắng bay về rồi đây
Trời ơi ! Vàng đến thế này
Mà sao đen bạc vẫn đầy thế gian…
(Giaparôgie 5 - 1990)
Với bạn
Mùa xuân như chén rượu đầy
Bạn ơi, cạn nỗi riêng này, với ta
Anh em ruột thịt trong nhà
Không chung chén rượu cũng là người dưng
Lòng vui thì uống rượu mừng
Lòng buồn thì uống để cùng thương nhau
Buồn vui trắng nửa mái đầu
Đời người đắng ngọt nông sâu đã từng…
Bạn ơi, nâng chén rượu mừng
Bao năm bom đạn, biển rừng, có nhau
Sóng cao chẳng nản tay chèo
Gian nan cũng chẳng đặt điều kêu ca
Gần xa bạn đến thăm nhà
Mặn chua, đĩa mắm, quả cà, cũng ngon
Làm thơ ở dốc Bồ Hòn
Câu khôn câu dại, câu còn dở dang…
Niềm thơ đã chót đa mang
Còn mong của rỗi, tâm nhàn, được sao…
Bạn ơi, nâng chén rượu đào
Đắm say, bông bụt nghiêng vào mái hiên
Một trời, một bạn, một em
Một thơ với một nỗi niềm khôn nguôi
Câu thơ như mảnh hồn người
Chắt chiu sương nắng một thời cho nhau…
(Bồ Hòn, 1980)
Bạn chơi từ thuở quàng khăn đỏ
Nửa đêm gõ cửa tìm nhau
Đèn che nửa bóng, mái đầu chụm đôi
Bác rằng Cơm đã ăn rồi
Có chai rượu thuốc ta ngồi uống chung
Đứa nhờ có vợ có chồmg mà lên
Đứa đi đánh giặc liên miên
Về quê, vẫn chú lính quèn, vậy thôi
Đứa thì đêm lạy van người
Ngày ngày vênh váo coi trời bằng vung
Đứa làm đạo diễn văn công
Nỗi đau đời giấu vào trong tiếng cười
Đứa đi buôn ngược, bán xuôi
Vào
Đứa thì làm giám đốc ngành
Đi đâu cũng có nhân tình đi theo
Đứa thì áo túm, quần đeo
Tinh mơ vác gạo, xế chiều bơm xe
Đứa liều vượt biển trốn đi
Nổi chìm nào biết tin gì thực hư
Đứa thì làm trưởng trại tù
Gặp nhau, tay bắt lạnh như đồng tiền…
Cùng thầy, cùng đội, cùng niên
Lớn lên ai biết làm nên thế nào
Tại trời hay tại ta sao
Nhảy ra thì thịnh. Bước vào lại suy…
Sự đời bác đến thế thì
Đã làm ông giáo còn đi buôn nhà
Sớm mai, bác phải ra tòa
Khôn ngoan biết lấy chi mà đãi nhau
Kể gì hơn thiệt, nông sâu
Lòng lành mà chắc sự đâu đã lành…
Bâng khuâng nỗi bác, nỗi mình
Ngoài hiên, trăng khuyết nửa vành xa xôi
Ước chi về tuổi chín mười
Vẫy khăn quàng đỏ giữa trời thẳm xanh…
(Bồ Hòn 1987)
Trần Nhuận Minh
Vũ mạnh Quang - vumanhquangnd@gmail.com - - Nam Định
(Ngày 30/08/2009 08:32:52 PM)
Nghe tên ông đã lâu, nay mới có dịp đọc thơ ông, những vần thơ giản dị mà đầy tâm trạng. Chỉ biết nói rằng, tôi phải đọc lại nhiều lần để thưởng thức nó . Chúc ông mạnh khoẻ .
|