Thứ sáu, 26/04/2024,


Thâm Tâm (25/12/2008) 

I. Vài nét về tác giả

 

Nhà thơ Thâm Tâm tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12/5/1917, tại thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

Là con thứ trong một gia đình nhà nho nghèo và đông con, học hết tiểu học, ông phải ở nhà giúp gia đình đóng sách và nấu bánh kẹo.

Năm 1938, chàng nghệ sĩ lên Hà Nội cùng gia đình, ở một phố thuộc quân Hai Bà ngày nay (xưa là Ô Cầu Dền). Trong cảnh người khôn của khó, Thâm Tâm phải kiếm sống bằng nghề vẽ tranh Bờ Hồ, viết báo, làm đồ gốm và bắt đầu làm thơ.

Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Bắc Hà, Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm, nhà sách Tân Dân và Truyền bá quốc ngữ... Ông từng thử sức trên nhiều thể loại thơ, truyện, kịch. Vẽ và viết cho loại sách Truyền Bá, nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui...

Thời kỳ 37-39 là thời kỳ đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa và đến 1945 toàn bộ báo chí phải trở thành vũ khí đấu tranh cách mạng. Một thời đại trong thi ca mất sân chơi. Từ giã 'Tiểu thuyết thứ bảy' và 'Truyền bá' (đóng cửa), cũng như bạn bè kẻ vô Nam, người ra Bắc, Thâm Tâm tham gia văn nghệ trong 'Hội cứu quốc' và tham gia ban kịch cùng người bạn thân là Trần huyền Trân. Thâm Tâm biên tập cho báo Tiền Phong (cách mạng) với công việc làm bích báo, vẽ áphích, viết kịch như: '19.8', 'Lối sống', 'Ðầu quân vào Nam' (1945), 'Người thợ', 'Lá cờ máu' (1946).

Năm 1947 ông gia nhập quân đội theo chỉ thị thông tư của Bộ quốc phòng vào tháng 2/1947. Thâm Tâm là người lính cầm bút trong Tòa soạn báo Vệ quốc dân với tư cách một thư ký cho cơ quan ngôn luận của quân đội nhân dân Việt Nam (miền bắc hồi đó).

Năm 1950, chiến dịch biên giới ở căn cứ Việt Bắc với phương án đánh Pháp ở Cao Bằng do Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng được đổi sang Ðông Khê. Trên đường hành quân này, Thâm Tâm bệnh nặng rồi mất.

Sinh thời ông chưa in thơ thành tập. Sáng tác thơ của ông được xuất bản năm 1988 trong sưu tập Thơ Thâm Tâm.

Ngoài ra, Thâm Tâm còn có có 3 bài thơ Gửi T.T.Kh, Màu máu Tygôn, Dang dở. Đây là những bài thơ tình hay nhất của Thâm Tâm gởi cho thi sĩ bí ẩn T.T.Kh trong năm 1940. Trong các bài thơ, ông tự nhận là người tình cũ của T.T.Kh. Một số người còn cho rằng chính ông là T.T.Kh. Tuy nhiên, vẫn không ai biết chính xác là như thế nào.

Tác phẩm:
- Đâu cảnh cũ, đâu người xưa (1941)
- Tống biệt hành (Thi nhân Việt Nam, 1942)
- Tráng Ca 1944
- Chào Hương Sơn
- Lưu biệt
- Vạn lý Trường thành (thơ in trên các báo trước 1945)
- Chiều mưa đường số 5 (1946)
- Màu máu Ti gôn
- Gửi TT Kh
- Bài Thơ Của Người Lính
- Thơ Thâm Tâm NXB Văn Học 1988


II. Thi phẩm lục bát

 

Các anh

 

Các anh hãy chuốc thực say
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
Giờ hình như quá nửa đêm
Lòng đau, đau lại trái tim cuối mùa

Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến đã rời rã đi

Tâm tình lạnh nhạt đâu nghe
Tiếng mùa lá chết đã xe dịch chiều
Giờ hình như gió thổi nhiều
Những loài hoa máu đã giao nối đời

Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh
Sá chi những chuyện tâm tình
Lòng đau đem chữa trong bình chua cay

 

Trả lời của người yêu

(Trả lời T.T.Kh.)

Các anh hãy chuốc thật say,
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im!
Giờ hình như quá nửa đêm,
Lòng đau đau lại cái tin cuối mùa.
Hơi đàn buồn tựa trời mưa,
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi!
Giờ hình như đã tối rồi,
Bánh xem đã nghiến, đã rời rã đi!...

Hồn tôi lờ mờ sương khuya,
Hờ rung tôi viết bài thơ trả lời.
Vâng, tôi vẫn biết có người
Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng,
Để hôm sau khóc trong lòng.
Vâng, tôi vẫn biết cánh đồng thời gian,
Hôm qua rụng hết lá vàng,
Và tôi lỡ chuyến chiều tàn về không.
Tiếng xe trong vết bụi hồng,
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ.
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có mấy bài thơ trở về.
Tiếng xe mở lối vu quy,
Hay là tiếng cắt nàng chia cuộc đời.
Miệng chồng Khánh gắn trên môi,
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
Đàn xưa từ chia đường tơ,
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan.
Kéo dài một chiếc áo lam,
Tơ càng đứt mối, nàng càng kéo giay.

Nàng còn gỡ mãi trên tay,
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn mầu.
Chung hai thứ tóc đôi đầu,
Bao giờ đan nổi những câu ân tình.
Khánh ơi, còn hỏi gì anh?
Lá rơi đã hết màu xanh màu vàng.
Chỉ kêu những tiếng thu tàn,
Tình ta đã chết anh càng muốn xa.
Chiều tan, chiều tắt, chiều tà,
Ngày mai, ngày mốt vẫn là ngày nay.
Em quên mất lối chim bay,
Và em sẽ chán trông mây trông mờ.
Đoàn viên từng phút từng giờ,
Sóng yên lặng thế em chờ gì hơn?
Từng năm từng đứa con son,
Mím môi vá kín vết thương lại lành.
Khánh đi còn hỏi gì anh,
Ái tình đã vỡ, ái tình lại nguyên.
Em về đan nốt tơ duyên,
Vào tà áo mới, đừng tìm mối xưa.
Bao nhiêu hạt lệ còn thừa,
Dành ngày sau khóc những giờ vị vong.
Bao nhiêu những cánh hoa lòng,
Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng hồn cha.
Nhắc làm chi chuyện đôi ta,
Bản năng anh đã phong ba dập vùi.

Hãy vui lên các anh ơi!
Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về.
Tâm hồn lạnh nhạt đê mê,
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch chiều.
Giờ hình như gió thổi nhiều,
Những loài hoa máu đã gieo nốt đời.
Tâm hồn nghệ sĩ nổi trôi,
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh.
Sái chi những truyện tâm tình,
Lòng đau đau chứa trong bình rượu cay.

 

 

Tráng ca

 

Sinh ta, cha ném bút rồi
Rừng nho tàn rụng cho đời sang xuân
Nuôi ta, mẹ héo từng năm,
Vắt bầu sữa cạn, tê chân máu gầy
Dạy ta, ba bảy ông thầy
Gươm dài sách rộng, biển đầy núi vơi
Nhà ta cầm đợ tay người,
Kép bông đâu áo, ngợt bùi đâu cơm?
Chong gai đổi dại làm khôn,
Ba vòng, mòng sếu lượn vòng lại bay...
Bông hoa chu giáp vần xoay
Cánh vàng non nửa đài gầy tả tơi...
Chữ nhân sáng rực sao trời
Đường xe mở rộng chân người bước xa...
Bọn ta một lớp lìa nhà
Cháo hàng cơ chợ, ngồi ca lúa đồng
Hhây hây tóc óng từng vòng
Gió nào là gió chẳng mong thổi lùa
Trường đình phá bỏ từ xưa
Đất này sạch khí tiễn đưa cay sè
Mốn phương tản mác bạn bè
Nhớ nhau hẹn quả mùa hè gặp nhau
...Rầm trời chớp giật mưa mau,
Lửa đèn chấp chới khói tầu mù u
Bốn phương đây bạn đó thù
Hiệu còi xoáy động bản đồ năm châu
- A, cơn thảo muội bắt đầu,
Tuổi xanh theo gió ngâm câu dặm dài
Thét roi lượng sức ngựa tài,
Coi trong cuộc rối tìm người chờ mong...
Trai lận đận, gái long đong
Chờ mong khắc khoải nản lòng dăm ba:
Nẻo về gốc mẹ cỗi cha
Thuyền ai nặng chở món quà đắng cay!
Từng nơi sống áo trùng tay
Gió thu thổi bạc một ngày lòng son;
Từng nơi cơm trấu, áo rơm,
Mưa xuân nhuốm tái mấy cơn mặt vàng
Vượn kêu ruột buốt trên ngàn
Nhưng thôi! Sao việc dã tràng lầm theo?
Nện cho vang tiếng chuông chiều
Thù đem sức sớm đánh kêu trống đình
Thở phù hơi rượu đua tranh
Quăng tay chén khói tan thành trời mưa
Dặm dài bến đón bờ đưa
Thuyền ai buồm lái giúp vùa vào nhau
Kia kìa lũ trước dòng sau
Trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương.

(1944)

 

Thâm Tâm

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
Các bài khác: