Sau mùa gặt tháng mười, khi còn sót lại vài đợt nắng hanh hao cuối cùng, bà tất tả xổ rơm mới ra phơi lại để làm ổ rơm, sẵn sàng đối phó với những đợt gió Đông Bắc rét buốt đầu tiên.
Ngọn nguồn mái dột, vách che
Ổ rơm ấm tận ngày hè còn thơm…
(Duy Thảo)
Mùa gặt xong xuôi cũng là khoảng thời gian hiếm hoi mà việc nhà nông ở khoảng thư nhàn. Ruộng bắt đầu nứt nẻ, gốc rạ còn trơ lại đã khô nỏ, lũ trẻ chúng tôi mải mê hun chuột đồng, bẫy chim ngói, mò cua bắt cá nơi sông cạn… Khi ấy, bà ngóng những đợt nắng hanh cuối cùng - cái nắng tuy không gay gắt nhưng mang theo gió khô - để xổ rơm ra phơi.
Rơm mới cất đống vẫn còn vàng óng và thơm ngai ngái, được bà cẩn thận rút ra từng nắm, giũ sạch. Đợi đến khi tan sương, mặt sân đất nện đã ngả màu bàng bạc, bà mới quét thật sạch và trải chiếu, phơi rơm ở bên trên. Mấy anh em chúng tôi, đứa nào được bà “tín nhiệm” nhất sẽ nhận nhiệm vụ trông gà, để chúng không vào chãi hoặc dẫm bẩn. Chốc chốc, bà lại cẩn thận dùng tay xởi rơm lên từng lượt để khô đều. Bà cũng không quên thu rơm trước khi nắng yếu, thường thì vào tầm hơn 14-15h. Cứ phơi như thế hai, ba nắng là được...
Trước khi đưa rơm vào trải ổ, bà quét giường chiếu thật sạch, trải một chiếc chiếu cũ bên dưới rồi trải rơm lên, dày khoảng nửa gang tay người lớn, trên cùng là một chiếc chiếu khác mới hơn. Vừa trải rơm, bà vừa dạy: “Phải trải đều tay, trải nhiều lượt mỏng ngang dọc khác nhau thì rơm mới đều và khi nằm có giẫy cũng không bị xô được”. Để tránh cho rơm không bị chảy xổ ra ngoài chiếu, bà dùng “bùi nhùi” để chặn phía ngoài, vòng quanh chiếu sao cho vừa vặn. “Bùi nhùi” cũng làm bằng rơm, to bằng cổ chân người lớn, được tết ba khéo léo giống như tết tóc, chắc chắn mà đều đặn.
Khi chớm rét, nằm trên ổ rơm thì chỉ cần đắp một lượt chăn mỏng lầ đủ. Ổ rơm của bà rất êm mà lại nhanh ấm nên mấy anh em chúng tôi đứa nào cũng tranh nhau đòi ngủ với bà. Trời có rét đến mấy, được chui vào rúc nách bà, nghe dở câu chuyện cổ tích là đứa nào đứa nấy đã lăn ra ngủ tít. Lúc ấy, không còn ám ảnh bởi cái rét... mùa đông như hiện diện ở đâu đó xa lắm và dấu tích của nó chỉ còn hiện diện vào sớm hôm sau, khi tất cả mấy anh em ngủ dậy đều hồng hồng hai má.
Những hôm trời lất phất mưa phùn, rét cắt da cắt thịt, bà ngồi đọc kinh, ít khi ra khỏi giường. Bà thường bảo “không có cái ổ rơm chắc không qua nổi mùa đông này”. Hôm nào nắng ấm, bà lại xổ rơm ra phơi để cho rơm đỡ ẩm, đến hết rét nàng Bân bà mới dỡ rơm khỏi giường...
Sau này, đời sống khấm khá hơn, bố mẹ tôi mua biếu bà chiếc đệm. Mới đầu bà cũng phấn khởi lắm, nhưng chỉ nằm được vài hôm là bà lại lụm cụm lấy rơm ra phơi. Bà bảo nằm đệm cũng ấm êm nhưng bà quen cái mùi của ruộng đồng trong rơm rạ rồi nên thiếu nó bà không ngủ được. Bố mẹ tôi hiểu, một đời bà lam lũ với đồng ruộng, đi ngủ gót chân còn vương mùi bùn, đầu đội lúa còn thơm mùi thóc mới... thì bà nằm đệm thao thức cũng phải.
Đêm qua trời trở gió mùa đông Bắc, mang theo mưa phùn. Tôi bỗng da diết nhớ cái ổ rơm của nội và không khỏi suy tư. Mùa đông bây giờ không còn cắt da cắt thịt như trước, có lẽ bởi người ta được trang bị nhiều quần áo ấm, chăn màn và các thiết bị hiện đại nên không còn sợ cái lạnh... Cũng bởi vậy mà trẻ con không còn mấy đứa được biết đến cái ấm áp quý giá của ổ rơm, cái ngọt ngào nuôi dưỡng tuổi thơ.
Như Quỳnh
(Nguồn: Báo Đất Việt)
Tiến Văn - nhvntin786@Gmail.com - 0974497471 - Hai Dương
(Ngày 23/12/2010 11:28:41 PM)
CUỐI ĐÔNG |