Có thể coi đấy là một người đàn ông gần như là duy nhất, còn sót lại của một gia tộc đã từng bị tật bệnh, kham khổ, đói nghèo, đẩy đến chỗ diệt vong, từ đầu Thế kỷ trước và rất ít người còn nhớ.
Người thoát chết đó đã gần 60 năm tuổi Đảng, đã về hưu được 40 năm, đã có đến 77 người con trai, gái, dâu, rể, cháu, chắt chút... đã tự lập sinh phần cho mình tại nghĩa địa làng từ gần 20 năm qua... Vậy mà ông vẫn đọc báo không cần đeo kính, vẫn toạ thiền và cứ băng băng lội suối leo đồi đi chữa bệnh không lấy tiền cho rất nhiều người bằng thuốc Nam do mình tự bào chế.
Ông còn là một trong những người đầu tiên ở nước ta trực tiếp viết thư gửi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Bộ Chính trị Trung ương Đảng, kiến nghị về việc Đảng và Nhà nước nên cho phép tất cả cán bộ công nhân viên chức được phép nghỉ và hưởng nguyên lương, để tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm trong ngày Quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương (Ngày 10 tháng 3 Âm lịch). Và kiến nghị này sau đó đã trở thành hiện thực...
Đó là cụ Cao Văn Chung, năm nay 94 tuổi, hiện sống tại xã Hương Nộn, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ; điện thoại: 0210.....
Ông Cao Văn Chung sinh tháng 3 năm 1914, là trai út của một gia đình rất nghèo gồm 5 anh em trai gái. Bố ông tên là Cao Bá Liên, mẹ tên là Nguyễn Thị Huệ. Quanh năm, bố mẹ ông chỉ biết đi ngược mường ngược mán làm thuê làm mướn kiếm ăn.
Năm 1927, anh trai cả của ông Chung lấy vợ. Nhưng cũng chính trong năm này, bố ông Chung qua đời. Khi đó mới 13, ông Chung đã phải cùng mẹ và các anh em chung lo chăm sóc ông nội vốn bị loà. Nhà đã nghèo khó rồi, nay lại càng nghèo khó hơn.
Đứng trước tình hình đó, bà Nguyễn Thị Huệ- mẹ ông Chung- quyết định dẫn cả bầy con đến nơi rừng sâu núi thẳm để lập trang trại tại Xóm Thẩm. Hi vọng đổi đời sao quá mông lung diệu vợi. Bởi suốt thời gian dài, cả gia đình vẫn không biết làm gì khác ngoài việc làm thuê, làm mướn đi mót đi xét và hái củi đổi cơm.
Gia đình ông Cao Văn Chung đã sinh sống tại trang trại Xóm Thẩm này tổng cộng 13 năm. Đó là 13 năm để lại dấu ấn đói rét lầm than sinh ly tử biệt hằn sâu khiếp đảm và khắc khoải mãi đến bây giờ.
Trong 13 năm ấy, có tất cả 20 người máu mủ ruột rà gồm: Ông nội, bố, mẹ, hai anh trai, hai chị dâu, em gái và mười hai người cháu của ông Cao Văn Chung đã lần lượt qua đời. Ông Chung ngậm ngùi gọi đó là Trùng tang liên táng. Tất cả vì đói cơm thiếu áo, tất cả vì lam lũ nhọc nhằn, tất cả vì kiếp người bị dồn tới bước đường cùng, tất cả vì lam sơn chướng khí...
Bản thân ông Chung sau biết bao đau xót nhọc nhằn cũng trở nên thân tàn ma dại. Không thể nào quên những cơn đói lả đến liệt người, những trận sốt khiến núi rừng cũng run bần bật, những đêm ngủ không chăn màn chỉ bầy muỗi vắt được no say, những gánh củi gùi măng èo oặt trĩu vai trên tấm thân bụng ỏng đít teo vì bệnh báng, những chiều mưa lê bước về không nổi sau khi gạt nước mắt vùi người thân nơi mộ táng... Thương người cũng thể thương thân. Những đau xót nhọc nhằn kia thực sự là thách thức lớn buộc người còn lại trong cuộc phải vượt qua. Và, đấng trượng phu Cao Văn Chung, bỗng như được “trang bị đến tận răng”, trước khi bước vào trận đấu sống còn với cuộc đời, tiếp đó.
Năm 1939, ông Cao Văn Chung lấy bà Chu Thị Tặng, khi vừa 26 tuổi.
Do đang ở trong chế độ cũ nên không ai cấm, năm 1943, ông Chung lại lấy vợ hai là bà Sính.
Số con ông Chung có với cả hai bà là 7 người: 4 trai, 3 gái.
Lý do để có nhiều vợ đông con, chắc chắn có nguyên nhân từ nỗi ám ảnh vẫn không nguôi của cái thời Trùng tang liên táng. Ông Cao Văn Chung luôn có một mối lo chính đáng, là không để gia tộc mình bị tuyệt tự.
Đến đây, xin được nói ít dòng về truyền thống Gia tộc của ông Cao Văn Chung. Gia tộc họ Cao đã lưu vong rồi định cư tại Hương Nộn, Tam Nông, Phú Thọ đến thời ông Chung là 8 đời. Theo gia phả để lại thì Các Cụ đều nghèo và gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Nhưng trải qua nhiều đời và dù khó khăn đến mấy, họ vẫn luôn chăm chút giữ gìn truyền thống hiếu thuận, ngay thẳng và trong sạch, không gian tham súc xiểm lọc lừa, luôn tu nhân tích đức mong để lại hồng phúc cho đời sau. Ông Cao Văn Chung đã được dạy dỗ và tự bồi đắp truyền thống quí báu đó từ lâu. Trong tất cả cách sống, cách nghĩ và việc làm của mình, ông luôn muốn là tấm gương, để cho cháu con mình hướng theo truyền thống đó.
Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945, nhờ bản tính luôn ôn hoà, lại thông minh năng nổ, ông Cao Văn Chung xin được chân làm Chưởng bạ (tức nhân viên địa chính) cho chính quyền cũ tại địa phương. Năm 1942, ông đã xin được ruộng được đất, làm được nhà để ở. Ông kể: Sau một trận lũ lớn, ruộng ngập tràn phù sa. Vụ lúa ấy, gia đình ông được mùa chưa từng có. Ông đã dựng được nhà gồm 5 gian, phải trả tiền cho hơn 240 công thợ mộc, mà vẫn dư ra 3 tấn thóc. Đây là một căn nhà khá lớn, được làm bằng nguyên vật liệu và có kết cấu khá tốt vào thời điểm đó, nên vẫn còn tồn tại để con trai út ông Chung đang ở bây giờ.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của nhân dân ta, xã Hương Nộn quê hương của ông Chung là nơi bị địch thường xuyên chiếm đóng. Chúng liên tục càn quét cướp phá đốt giết vô cùng tàn bạo. Nhiều gia đình, trong đó có gia đình ông Chung, đã bao lần gặp thảm hoạ, phải thường xuyên tản cư để cất giữ tài sản và bảo vệ mạng sống. Nhưng cái giá phải trả không phải là nhỏ cho tội ác của chúng. Có đến 2 người con của ông Chung là Cao Thị Tuyết và Cao Văn Vinh bị ốm chết, vì không có thuốc cấp cứu trong lúc chạy giặc giữa rừng. Có những trận càn chúng cướp mất 4 con bò, phá phách vơ vét hết mọi tài sản của gia đình ông... Chính tội ác của giặc và lòng căm thù chúng, càng thúc đẩy mạnh mẽ quyết tâm tham gia cách mạng để bảo vệ làng mạc, giải phóng quê hương của ông Cao Văn Chung.
Tháng 8 năm 1945, ông Chung hăng hái vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc, để tham gia cướp chính quyền tại địa phương. Ông đã giao nộp toàn bộ hồ sơ giấy tờ về địa chính cho chính quyền cách mạng. Ông đã được giao nhiệm vụ trực tiếp làm Thư ký cho Uỷ ban Kháng chiến xã Mê linh đến năm 1948.
Vừa tham gia công tác cách mạng, vừa chung tay chăm sóc mẹ già (mẹ vợ), vừa nuôi dạy đàn con khôn lớn... ông Chung thực sự đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách trong khói lửa đạn bom để hoàn thành chức phận của một người con, người chồng, người cha và một người cán bộ cách mạng suốt thời gian đó.
Sau một thời gian nhiệt tình tham gia công tác đạt nhiều thành tích xuất sắc, tháng 7 năm 1948, ông Cao Văn Chung vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tức Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Ông Chung được bầu vào Chi uỷ viên năm 1951. Đến đầu năm 1953, ông Cao Văn Chung được bầu làm Bí thư Chi bộ Đảng.
Tháng 4 năm 1953, ông Chung được cấp trên điều lên làm cán bộ phụ trách Thuế nông nghiệp của huyện Tam Nông.
Trong năm 1954, ông Chung được cử giữ chức Chánh Văn phòng Huyện uỷ huyện Tam Nông.
Sau đó, ông lại được cử sang làm cán bộ Tổ chức của Uỷ ban Nhân dân huyện và trực tiếp tham gia công tác cải cách ruộng đất tại địa phương.
Năm 1959, ông Cao Văn Chung lại được điều trở về làm Chánh Văn phòng Huyện uỷ. Năm 1960, ông trúng cử Huyện uỷ viên và đảm trách công tác Uỷ viên Thường trực Huyện uỷ Tam Nông tỉnh Phú Thọ.
Từ năm 1963, ông Cao Văn Chung được Tỉnh rút lên giao công tác phụ trách Nông lâm nghiệp, kiêm hoạt động thi đua khen thưởng của tỉnh Phú Thọ.
Do bị bệnh hen suyễn, dẫn đến tình trạng sức khoẻ không được tốt, tháng 12 năm 1967, ông Cao Văn Chung được Nhà nước cho nghỉ hưu. Vậy là kết thúc chặng đường 24 năm liên tục công tác phấn đấu của một cán bộ trong biên chế của Nhà nước.
Nhưng với ông Cao Văn Chung, sự kết thúc này chỉ là điểm bắt đầu cho một chặng đời mới.
Luôn sống với tâm niệm: “Đức giả, bản giã” và “Hữu thân, hữu khổ”... nên trải qua suốt những năm tháng vật lộn ba chìm bảy nổi, nếm đủ mùi vị đắng cay chua xót, không thể không có lúc thoái chí nản lòng đến muốn bỏ nhà đi, nhưng sự chịu đựng và tinh thần vượt khó để trung thành với lý tưởng của một người đảng viên, đã giúp ông Chung đứng vững và tiếp tục phấn đấu.
Từ lúc về hưu năm 1968 đến nay (2007), là 40 năm Đảng viên Cao Văn Chung liên tục tích cực góp công góp sức cho nhiều lĩnh vực công tác tại địa phương. Đó là 28 năm chuyên trách công tác Mặt trận Tổ quốc của xã Hương Nộn, đồng thời là Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc Huyện Tam Nông trong nhiều khoá. Đó là nhiều nhiệm kỳ được bầu đảm trách Bí thư Chi bộ cơ sở. Đó là nhiều năm tháng bận bịu với nhiều chức danh kiêm nhiệm khác như: Phó ban Thuỷ nông xã, Đội trưởng đội Trồng cây gây rừng, Hội trưởng Hội Cán bộ hưu trí, Tổ trưởng tổ Hoà giải... Nhưng vinh dự và tự hào nhất là ông Cao Văn Chung chính là một trong những người khởi xướng và đóng góp tích cực vào việc viết Lịch sử Đảng bộ xã Hương Nộn và Lịch sử Chùa Phúc Thánh tại quê nhà. Với tất cả các nhiệm vụ đó, trong suốt 40 năm qua, ông Chung luôn có quyền tự hào là mình đã góp hết tâm sức để hoàn thành một cách tốt đẹp.
Ngoài việc tham gia các nhiệm vụ công tác tại địa phương, ông Cao Văn Chung còn là một đảng viên luôn chăm chú theo dõi và tích cực đóng góp nhiều ý kiến đầy tinh thần xây dựng cho các quyết sách của Đảng bộ địa phương và của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ông đã từng viết thư gửi Chính phủ kiến nghị xoá bỏ việc trồng và tiêu thụ cây thuốc lá, chuyển đổi công nghệ của các nhà máy chế biến thuốc lá sang sản xuất các mặt hàng khác.
Năm 1986, ông Chung đã gửi thư lên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, ca ngợi và lưu ý thêm về chủ trương giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.
Năm 2004, ông Chung lại trực trực tiếp viết thư gửi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Bộ Chính trị Đảng ta, kiến nghị về việc Đảng và Nhà nước nên cho phép tất cả cán bộ công nhân viên chức được phép nghỉ và hưởng nguyên lương, để tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm trong ngày Quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương (ngày 10 tháng 3 Âm lịch)... Và đến nay, kiến nghị đó đã trở thành hiện thực.
(Còn nữa)
------------------
LBT: Nếu Quý bạn đọc muốn tham gia chuyên mục 'Chuyện đời tôi'? Nếu các bạn trẻ muốn dành món quà tặng bất ngờ, đầy ý nghĩa văn hóa cho ông bà, cha mẹ mình (nhân lễ mừng thọ, kỷ niệm ngày cưới vàng, bạc...) xin hãy liên hệ với số máy 0913210520, hoặc email: lucbat.com@gmail.com. Các nhà văn trẻ đang có mặt ở nhiều vùng miền trên cả nước, sẵn sàng đến tận nhà riêng để phục vụ và thể hiện tác phẩm theo thỏa thuận.