Chủ nhật, 22/12/2024,


Ký ức làng qua những câu hát phường vải (28/08/2008) 

   Trong ký ức tuổi thơ tôi, mỗi cánh đồng là một vùng đất mới lạ. Mỗi khóm tre, bụi chuối, đỉnh núi, trời sao đều có ma quỷ, thánh thần, sự linh thiêng. Ngôi làng là cả một vũ trụ bao la. Quan niệm ấy rồi cũng mất đi cùng với tuổi thơ. Nhưng bù lại, người lớn sẽ hiểu hơn cái thăm thẳm của hồn làng khi nghĩa địa là nơi vùi chôn những người mình đã  từng chung sống. Cái mất, cái còn của làng và của mình cứ quấn quýt đan xen, hư thực mờ ảo.

 

     Tôi sinh ra giữa bốn bề tre nguyên thủy cây tre già chặt đi làm nhà thì măng mới mọc lên. Tuổi thơ tôi bồng bềnh trên chiếc võng chõng, mắt mở xanh màu dâu vườn, dâu bãi; tai lắng còn nghe tiếng lách cách thoi đưa, tiếng xè xè của xe quay sợi. Nhưng không còn những đêm hát ví. Chỉ thấy mẹ tôi lúc nào cũng tất bật.

 

     Mẹ tôi xưa là người con gái đẹp của làng. Nhưng ông nội tôi lọt mắt và hỏi làm dâu chỉ vì mê điệu hái dâu.

     Thủa xưa, ông nội tôi thường một mình, một ngựa bạch ngao du sơn thủy, đi hát ví, hát đúm tận Nam Đàn, Nghi Xuân, có khi kéo bạn hát về nhà cơm rượu hò hát mấy ngày liền. Thời ấy hát, sau này các cô tôi bảo là:

 

Hát cho đổ quán xiêu đình,
cho long lanh nước, cho rung rinh trời,
hát cho ngày rạng đông ra,
mai về quan bỏ nhà pha cũng đành'...

 

     Cấy hát, gặt hát, ngược nguồn xuôi bè hát, phường nón, phường vải hát. Nhàn rỗi, không phường gì trăng thanh gió mát cũng hát. Mà nên một vùng dân ca xứ Nghệ đậm đà.

     Trong làng có một người phụ nữ dệt lụa rất đẹp tên là bà Hạnh. Bà Hạnh chỉ ngồi khung cửi không bao giờ ra ruộng cho nên nước da trắng và bà hay hát. Có dạo, không tròn bóng (buổi trưa) nào mà tôi không đến ngồi ở bậu cửa bà Hạnh để nghe bà kể chuyện và hát.

 

Xin trời hãy nắng khoan mưa
Cho dâu xanh bãi, cho vừa lòng tằm
Khi mô cho đến tháng mười
Đọi cơm khúc cá vừa cười vừa ăn

 

     Không hiểu sao, một đứa bé chưa sạch mũi như tôi hồi ấy lại mê:

 

Đã thương thì thương cho chắc
Đã trục trặc thì trục trặc cho luôn
Đừng như con thỏ nọ nó đứng đầu chuồng
Khi vui giỡn bóng
Khi buồn bỏ đi...

Thương em răng được thì thương
Đừng trao gánh nặng trữa (giữa) đường tội em
Cầm vàng mà lội qua rào
Vàng rơi không tiếc, tiếc bộ má đào của em

 

     Rồi bà kể: có anh đi hát phường vải, chẳng may đường trơn bị ngã. Các cô trong nhà cười ầm và hát vọng ra:

 

Đến đây hò hát làm thân
Cái đầu bái lậy trước sân làm gì

 

     Chàng trai là người thông minh, cũng chẳng phải vừa:

 

Đất đâu có đất lạ lùng
Đứng thì chẳng chịu, nằm cùng thì cho

 

     Với cái anh bạo mồm như vậy, còn ai dại trêu ghẹo làm gì?


* * *

     Tôi xa hẳn làng vào những năm chiến tranh ác liệt, ở tuổi thiếu niên. Và đến tuổi bốn lăm mới lại trở về. Bà Hạnh và nhiều người đã chết. Cả làng bây giờ không còn khung cửi và gốc dâu nào nữa. Mẹ tôi lụi hụi với tuổi bảy mươi, nửa hồn héo hắt ở phương nam, nơi anh tôi ngã xuống; nửa hồn nhớ cháu nhớ con ở tám phương, chín phương mà không dễ tìm thăm.

     Rõ ràng, trong mắt người đứng tuổi và nhiều lịch dịch như tôi, ngôi làng quê trở nên nhỏ bé. Dĩ nhiên, đi đêm không còn sợ ma. Gặp hiện tượng gì, lý trí cũng tìm cách giải thích.

     Thế mà ngày xưa, mỗi cánh đồng là một vùng đất mới lạ. Trong mỗi khóm tre, bụi chuối, đỉnh núi, trời sao đều có ma quỷ, thánh thần, sự linh thiêng. Ngôi làng là cả một bao la vũ trụ, bao la nhân thế. Người ta đã mất đi quan niệm ấy cùng với tuổi thơ. Nhưng bù lại, người lớn sẽ hiểu hơn cái thăm thẳm của hồn làng khi nghĩa địa là nơi vùi chôn những người mình đã từng chung sống. Cái mất, cái còn của làng và của mình cứ quấn quýt đan xen, hư thực mờ ảo. Nhiều khi cái trước mắt là xa, cái xa thì gần, bồn chồn, rạo rực...


     Làng quê Việt Nam bao giờ cũng dành cho những đứa con đi xa một nỗi nhớ thương và tình cảm đặc biệt. Phải sống lại với làng, phải tròn trịa với quê hương, phải tìm lại những gì đã mất, đã chưa kịp kết khí trong hồn với tôi gần đây thành một điều thôi thúc. Tôi là con của làng, mà đâu biết phong hóa tập tục, từ chuyện cưới xin, ma chay, phải đọc Phan Kế Bính từ con số không mà lẽ ra phải ngược lại... Những câu mẹ tôi ru em xưa ứ đầy tâm sự mà đâu tôi có hiểu được lòng Người, ngõ hầu làm Người vơi nhẹ, nào những:

 

Chim xanh xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát lên nhành nghỉ ngơi
Cực lòng lan lắm huệ ơi
Kiếm nơi mô im mát, huệ ngồi cho lan phân
Vì sương cho núi bạc đầu
Biển lay vì gió, hoa sầu vì mưa

 

     sử hiện đại đất nước, không biết bao thăng trầm, biến động, bao phen nhân thế khóc cười. Có tâm sự phải im nén cả đời không thể tỏ bày. Có nỗi đau thương phải trời xanh kia may thì mới hiểu. Đó là bên trong. Bên ngoài, mẹ tôi là một người sôi sục hoạt động xã hội, mới nghỉ gần đây. Đã có lúc Người được điều lên huyện, lên tỉnh. Nhưng chồng thoát ly, một nách bảy con, Người đã hy sinh vì chúng tôi hết thảy. Một nách bảy con vào những năm đói kém, ác liệt nhất của lịch sử, sự nuôi dạy của Người đối với chúng tôi không thể đủ đầy. Nhưng có sự bày dạy lặp đi lặp lại, đọng với chúng tôi qua thanh lọc thời gian, đó là quý nhất là con người. Làm người cái quý nhất là sự thật thà và trọng nghĩa khí. 'Khôn ngoan kẻo lọ thật thà'. Không chỉ hát ru, ngày thường, Người vẫn dạy chúng tôi bằng những câu lục bát: 'Có vàng vàng chẳng hay phô - Có con con nói trầm trồ mẹ nghe', 'Muốn cho tình nghĩa lâu dài - Đừng coi của trọng hơn người mà hư'...


     Tôi hỏi Người về hát phường vải. Người bảo: Đi mà hỏi o Thắng

là người cô thứ năm, bẩm sinh thông minh, ông tôi chỉ cho đi học đến biết đọc, biết viết nhưng có trí nhớ lạ lùng. Vào những năm chiến tranh quê tôi rộ lên phong trào hò - hát đối đáp giữa làng này với làng khác, giữa làng với bộ đội cô luôn được mời làm 'cố vấn' để đặt lời. Mẹ tôi gặp lần nào cũng đuổi về, nhưng rồi đêm nào cô cũng băng đồng túm tụm với bọn trẻ.

     O Thắng kể: Hát phường vải thường hát tự nhiên, ai thích gì hát nấy. Có khi mấy chị em hát với nhau. Lâu lâu mới có đám hát, nghe tiếng nhau mà có những anh nho (nho sinh), thầy ký (thư ký) đến hát thì lúc đó, hát có lớp lang như hát dặm, hát chào, hát mời, hát hỏi, hát đố, hát xe duyên, hát tiễn hẹn.

     Rồi cô hát, câu hát chào:

 

Đến đây đông thật là đông
Chào bên nam thì mất lòng bên nữ
Chào quân tử thì sợ dạ thuyền quyên
Em chào chung một tiếng kẻo chào riêng bạn cười...

 

     Câu hát xe duyên:

 

Thiếp thương chàng đừng cho ai biết
Chàng thương thiếp đừng để cho ai hay
Rồi ra miệng thế lắt lay
Cực chàng chín rượi (rưỡi) khổ thiếp đây mười phần

 

     'Hay rứa lạo (lão) nạ'! Hay! Tôi đáp. O bỗng bật cười rồi dụi dụi mắt. Những gì của O trong tiếng cười, trong giọt nước mắt vừa ứa? Tôi đã nghe nhiều Xuân Năm, Hồng Năm, Lệ Thanh hát những câu hát này. Nhưng không thấy được giọt nước mắt trên má răn reo của người cô luống tuổi. Ngoài kia, lúa mùa vừa chín. Những quả khế non lích rích dưới chân chim, thảng hoặc những lá vàng rụng từng chiếc xuống sân đất thật nhẹ. O lại hát:

 

(Chơ)
Anh đến giàn hoa thì hoa đạ (đã) nở
Anh đến bến đò thì đò đạ sang sông
Anh đến tìm em thì em đạ lấy chồng
Em yêu anh như rứa, hỏi có mặn nồng lấy chi...

(Chơ)
Anh đến giàn hoa, hoa đến thì thì hoa phải nở
Anh đến bến đò, đò đầy thì đò phải sang sông
Đến duyên em, cha mẹ gả thì em phải lấy chồng
Dừ trách nhau chi lắm nựa (nữa), để cực lòng nhau thêm...

 

     Ôi những chuyến đò! Đò đầy thì đò phải sang sông... Những chuyến đò chở ai về hạnh phúc và chở ai về oan trái? Rồi chuyến đò thời gian chở những đời người đi đâu mà mải miết? Giấc mộng kê vàng, thế sự du du... Nhưng thôi, vận vào mà chi cái nỗi buồn thiên cổ!

***
     Trong ví phường vải, hát hỏi (hát đố, hát đối và hát xe duyên hát tình, hát xe kết) là để lại nhiều áng văn chương hay nhất. Con gái Nghệ Tĩnh vốn yêu thơ ca, con nhà nông có, con nhà Khoa bảng có, khi hát đố sách, đố chữ, có khi hát đố về thực tế. Có khi là 'Truyện Kiều anh thuộc đã lâu, đố anh đọc được một câu hết Kiều', có khi là câu đố đối hóc búa:

 

Năm con ngựa cột cồn Ngũ Mã
Chín con rồng nằm Cửu Long Giang
Chàng mà đối được, có lạng vàng em trao...

 

     Có khi là câu đố về công việc nhà nông:

 

Đến đây hỏi khách nhà nông
Một trăm mẫu ruộng mấy công cày bừa?

 

     Có khi là một câu đố về lễ, đặt người con trai vào một tình huống cực kỳ nan giải:

 

Đồn rằng anh học đã cao
Hỏi chị dâu rớt giếng, anh nắm chỗ nào kéo lên.

 

     Có anh trả lời, cứu được chị mà không thất lễ:

 

Chị dâu mà rớt xuống giếng
Anh tìm miếng để cứu chị lên
Nắm đầu thì sợ tội trời
Hai tay nâng đỡ, sợ lời thế gian
Nhanh tay liền bắc cái thang
Kéo chị dâu một thuở kẻo chết oan con người

 

      Có anh không biết làm gì cả, đành la làng:

 

Nắm đầu thì khổ
Nắm cổ thì không nên
Nắm chân tay thì lỗi niềm huynh đệ
Vậy thì anh cứ van làng là hơn!

 

* * *

 

     Làng tôi giờ ngày một khác xưa. Người học hành đỗ đạt, có chức tước thì không về làng nữa. Những người biết làm ăn cũng định cư ở trong Nam, ngoài Bắc. Tôi mừng bây giờ làng đã no đủ, xe đạp, xe máy dập dìu. Điện sáng suốt ngày đêm. Tivi nhiều. Nhiều cả những trận đá banh. Nhưng những cái xưa tôi theo tìm trong hoài niệm thì dường như đã ít. Cái tôi tìm có phải là giá trị văn hóa, là cái đẹp chăng? Tôi tin vào điều ấy vì cái gì làm người ta hoài niệm, chắc là cái đẹp. Tôi lo lắng cho làng ư? Thế cũng vô lý, vì tôi cần làng, làng có cần một ai cụ thể đâu. Chính trên cánh đồng cày xới khi gieo hạt giống, người nông dân sẽ gieo cho mình, cho đời sau những hạt mầm văn hóa. Tôi tin chắc như vậy. Nhưng tôi vẫn thương cho những câu hát của mình.

Theo tác giả Nguyễn Sỹ Đại

 

 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
Các bài khác: