Nón lá Việt ở làng Mai đất Pháp
Từ dạo rời xa quê hương, người Việt chúng ta ở hải ngoại, ít nghe ai nhắc đến hai tiếng 'về làng'. Nên bây giờ nhắc đến hai chữ về làng, lòng tôi chợt nhớ đến một thời tuổi thơ đầy kỷ niệm. Thời ấy, quê hương loạn lạc, phải theo cha mẹ chạy giặc, tản cư đến nơi tạm yên ổn hơn, nơi ấy không bị giặc lùng bắt. Nhà cửa bị đốt cháy, ruộng vườn đều bỏ hoang. Đến khi yên ổn, thì mẹ dắt con, vợ theo chồng lũ lượt kéo nhau từng đoàn trở về lại làng xưa. Dựng lại mái tranh để che mưa đỡ nắng, phát cỏ vườn trước để trồng rau, cuốc đất vườn sau để trồng khoai trồng sắn, hầu tìm lại cái ăn cái mặc cho gia đình. Tuy vất vả trăm bề, nhưng thấy cha mẹ vẫn tươi cười khi được về lại mái nhà xưa, khu vườn cũ. Cảnh về làng của những ngày ấy chỉ để nhìn lại kỷ niệm, trở lại không khí quen thuộc của những ngày xưa, hay sống lại với chuỗi ngày tràn đầy yêu mến. Chừng ấy cũng giúp cho họ có một sự thanh thản trong tâm, những giây phút tràn đầy nước mắt tủi tủi mừng mừng. Quê tuy nghèo với cảnh sống đạm bạc nhưng đầy ắp tình bà con làng xóm, tình nghĩa của ông bà tổ tiên. Nơi ấy như có một hồn thiêng che chở, như một chất keo gắn bó. Chất keo ấy vô ảnh vô hình, nhưng lại khiến cho lòng người mãi lưu luyến, không mấy ai nỡ bỏ chốn quê, mặc dầu chốn còn nhiều khó khăn, gian khổ. Quê tôi – đất Quảng Trị nghèo, khí hậu nghiệt ngã, với hai mùa mưa nắng, nắng cháy da và mưa dầm thối đất. Suốt đời lam lũ, khoai sắn cũng không đủ để no lòng. Nhưng bù lại, còn có hương vị quê hương, cái hương vị ấy là:
Cơm dưa muối khó khăn mới có.
Của không ngon nhà khéo cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm dòn.
Chồng chồng vợ vợ con con một nhà...
(Ca dao)
Ở thôn quê còn có cảnh nào hạnh phúc và đầm ấm hơn thế nữa, với đêm trăng ra ngồi trước sân, nghe ông bà kể chuyện đời xưa; mùa đông lạnh giá thì lại quây quần bên bếp lửa hồng. Cảnh sống đạm bạc ấy còn giúp cho con người giảm đi rất nhiều những ham muốn thường tình, con người đều sống an phận với nương vườn rẫy ruộng. Cuộc sống của dân quê dần dà rồi trở thành một cái Đạo, cái đạo ăn hiền ở lành, sống bình thường như thiên nhiên, như cỏ cây hoa lá, nhưng nhờ bàn tay cần mẫn chăm sóc, sẽ tự sinh cho nhân tốt quả lành như câu ca dao ông bà chúng ta vẫn thường răn bảo:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
(Ca dao)
Việc nhân cách hóa dây bầu dây bí, để trao lại cho con cháu một thông điệp tình thương, cũng thâm thúy biết bao. Vì rằng tuy khác dòng họ, nhưng cùng chung sống trong một làng, thì chúng ta đang có tình giềng mối, nghĩa xóm làng chung đụng với nhau hàng ngày; như dây bí dây bầu kia cùng leo chung một giàn vậy. Cỏ cây sống được là nhờ trợ duyên của thiên nhiên, như nắng sớm sương chiều tưới tẩm và sương nắng thì đều được tắm chung cho tất cả các loại cỏ cây, không phân biệt. Con người cũng vậy đều được thừa hưởng những tặng phẩm của đất trời: không khí để thở, thực phẩm để dinh dưỡng. Quà tặng ấy là của chung cho cả nhân loại, cho mọi loài chúng sinh, chứ không phải của riêng ai, nên theo Phật giáo tinh thần 'Lợi hòa đồng phân' trong Lục Hòa là tôn trọng sự công bằng của Tạo hóa, thể hiện lòng Từ bi của Đức Phật, duy trì tinh thần tương thân tương trợ, cũng như tạo nên cảnh sống hòa bình an lạc.
Những năm ấy tôi còn nhỏ, nhưng vẫn nhớ rõ cảnh đi hái rau mưng rau má, đi đào củ mài củ éo để ăn qua ngày. Cũng may trong vườn còn sót lại năm ba cây mít, ít bụi chuối, vài gốc chè vẫn cho trái ra hoa dùng để đỡ đần hôm sớm. Vẫn vui với cái vui an phận thủ thường, không còn ước mơ gì cao xa hơn nữa, dần dà rồi cuộc sống được trở lại yên ổn để làm ăn. Làng xóm cũng được dựng lên những ngôi nhà mới, tuy nhà tranh vách đất nhưng hình ảnh ấy đã làm tăng thêm sức sống cho mọi người. Vườn hoang giờ đây đã mọc lên hoa màu, cảnh vắng vẻ bây giờ đã nhộn nhịp như xưa, vườn cũ bây giờ chim đã về hót đậu, với người dân quê như thế là hạnh phúc lắm rồi!
Qua lời mời của một người bạn, tôi được đến Làng Mai – Một làng quê Việt trên đất Pháp (trước làng có tên là làng Hồng, trồng hơn 1000 gốc mai lấy quả làm mứt giúp những trẻ em mồ côi ở quê nhà, lúc ấy làng đổi tên thành Làng Mai). Hôm nay gặp duyên lành, lại được về làng là một sự may mắn, hơn nữa về Làng Mai là một nguồn an ủi, được học những phương pháp chuyển hóa khổ đau, để có một cuộc sống an vui hạnh phúc, cho nên hai chữ về làng bây giờ còn mang một ý nghĩa cao đẹp, một cơ hội được học làm người và sống lại với dư vị đã thân quen. Trước hết là bắt gặp một khung cảnh làng mạc, có bụi chuối vườn rau, có khóm hành bụi ớt, có giây bí giàn bầu...
Sau chùa có một vườn rau.
Trồng bao lâu đã xanh màu quê hương?
Ngò gai, rau húng, quế hương
Giàn leo đậu ván dễ thương vô cùng
Sao mới thấy vườn rau đã biết đó là màu quê hương, vì vườn rau nầy đang trồng nơi đất lạ quê người mà? Và bất chợt tôi mới hiểu ra cái màu quê hương ấy, tôi cũng đã mang theo trong huyết quản, trong tâm thức nhưng chưa có duyên hạnh ngộ, nên màu quê chưa tỏa rạng, bóng quê bị che lấp bởi cánh cửa vô tình khép lại. Giờ đây cánh cửa được rộng mở, duyên may được bắt gặp đã làm cho lòng tôi vơi đi nỗi nhớ, cũng như không còn ngại ngùng trước cảnh tha hương, mà lâu nay một mực trăn trở như cảm thấy có một sự mất mát lớn lao. Ở đây lại còn có thêm ao sen xanh tốt, có bụi trúc xinh xinh sớm chiều đong đưa trước gió.
Chiều ra ngồi ngắm sen xanh
Lá khum lòng chảo lã cành dọng sương
Cạnh bên búp nở trắng hồng
Lung lay cánh gió long bong cánh thuyền
Tâm cảnh hiện bày nên cảm tưởng như mình đang đón nhận một cuộc sống thảnh thơi, bắt đầu từ khi mới đặt chân đến làng. Sự cảm nhận của giây phút ban đầu ấy, như thực tại đã gắn bó với chốn cũ quê xưa. Nhưng chưa dừng lại đó mà phải đi tìm những gì khác biệt hơn thế nữa kia, sự khác biệt đó là khi nhìn thấy những người bản xứ.
Làng Mai có xóm Thượng, xóm Trung và xóm Hạ, mỗi xóm chỉ cách nhau vài cây số, con đường băng qua các xóm cũng nằm giữa cánh đồng, có con đường đất dẫn từ xóm dưới lên xóm trên, hai bên đường nối nhau thẳng tắp những hàng nho, những hoa hướng dương, hay nương bắp phất phơ theo chiếc áo màu lam của các cô thôn nữ, lủ lượt theo nhau lên chùa lễ Phật. (Hiện giờ, vì nhu cầu tu học càng ngày càng đông, nên làng đã lập thêm các xóm: Xóm Mới. Xóm Thượng trở thành Chùa Pháp Vân, Xóm Hạ trở thành Chùa Cam Lộ và xóm Mới có Chùa Từ Nghiêm)
Về Làng Mai cùng nhau tu học, như để giải tỏa tất cả những gì mà từ lâu đã chất đầy thêm gánh nặng. Thực tập sống thế nào cho cuộc đời có ý nghĩa, có hạnh phúc rồi chia xẻ cho thân hữu, bạn đồng hành, ngõ hầu dìu dắt nhau cùng đi những bước chân vững chải trên đường đời, đầy chông gai và sống gió này.
Ngoài việc được sống cái không khí làng mạc của Việt
Nên hôm nay về làng Mai, bắt gặp hình ảnh của một Tăng đoàn rất uy nghi và thanh thoát, vì họ đã trải qua một quá trình xây dựng và tu hành. Thực tập những việc làm công ích, lợi lạc như đang gạn đục khơi trong, chọn lựa những hạt giống tốt lành để trồng vào vườn tương lai, dựng xây cho thế hệ con cháu.
Cộng đồng Tăng sinh làng Mai đón xuân
Tôi còn thấy trong lớp Tăng sinh đang đào tạo các vị Giáo thọ, có nhiều vị rất uyên thâm, đã đến phẩm vị Thượng tọa rồi, nhưng khi nhập vào lớp Tăng sinh thì rất bình dị và hài hòa, khi học thì chăm chỉ vào việc học, khi làm việc cũng chia ra từng toán, vị thì xăn tay áo vào bếp nấu nướng, vị thì rửa rau cải..., có vị thì buổi sáng giảng giáo lý cho lớp học chúng tôi nghe, buổi chiều lại đeo găng tay vào nhặt rác, thấy vậy tôi vội vàng thưa, xin Thầy để con làm, thì vị nầy ôn tồn bảo: đạo hữu cứ để Thầy làm để Thầy thực tập luôn thể! Tôi hơi ái ngại trước nghĩa cử cao đẹp, lòng nhân ái của vị tân Giáo thọ nầy, vì xưa nay là hàng Phật tử chưa bao giờ thấy quý vị tài cao đức trọng làm công việc ấy. Nên bây giờ thấy vậy lòng sao không khỏi ngẩn ngơ?
Nhờ vậy mà tôi học được những đức khiêm cung, tính giản dị và lòng an nhẫn nơi các vị nầy, còn học thêm cách đi đứng trang nghiêm trong những bước thiền hành, học ăn uống nghiêm túc trong yên lặng, học nghe tiếng chuông để cho lòng được thanh tịnh, học lễ lạy và tụng kinh để biết đến công ơn Tam Bảo đã dẫn dắt chúng sinh đi đến con đường hiểu biết và thương yêu rộng lớn, cùng khắp.
Sự hòa hợp không phải dễ dàng có được trong một cộng đồng đông đúc, gồm nhiều người tứ xứ, khác biệt về ngôn ngữ, về phong tục tập quán, về văn hóa... Thế mà họ đã dung hòa được tất cả, để trở thành một đại chúng trang nghiêm, thanh tịnh, với tấm lòng yêu thương rộng lớn. Việc cảm thông đôi khi cũng không cần dùng đến ngôn ngữ để mời gọi, không quyến rũ bằng lời đường mật, không có tâm phân biệt phải trái, mà có thể cảm nhận bằng vô ngôn, nói như ngài Nhật Liên là 'Vô tình thuyết Pháp', nghĩa là thấy cảnh thanh tịnh thì lòng mình tự dưng được an lạc. Thật vậy, khi gặp gỡ thì chấp tay xá chào nhau rất cung kính, miệng mĩm cười như trao tặng cho nhau những đóa hoa rất đẹp. Hay lúc thực tập đi đứng, các hành giả bước đi rất thảnh thơi trong chánh niệm. Sự kiện có được như vậy chắc chắn họ đã vun trồng và chăm bón cho hạt giống tốt từ nhiều đời nhiều kiếp, nên bây giờ mới có kết quả, mới hái được trái lành.
Ngoài việc học đạo mong tìm nguồn an lạc và hạnh phúc cho bản thân để xây dựng gia đình và xã hội, trong khóa tu mùa hè chúng ta còn được tham dự các buổi lễ rất ý nghĩa như lễ Tạ Ơn và Giỗ Tổ, lễ Vu Lan để tưởng nhớ đến công ơn cha mẹ (lễ Bông Hồng Cài Áo) lễ Tưởng Niệm Thuyền Nhân và Anh Hùng Liệt Sĩ chết vì lý tưởng tự do; lễ Tết Trung Thu dành cho các em thiếu nhi. Đối với những người đã đến tuổi trưởng thành, cũng có tổ chức Đám Cưới theo cổ truyền Việt Nam, có cảnh đón rễ rước dâu, từ xóm dưới lên xóm trên, làm lễ Gia tiên, rồi lên Chùa lễ Phật. Chú rễ và cô dâu với áo dài khăn đống, bà con hai họ và xóm giềng cũng thướt tha trong những chiếc áo dài, hay chiếc áo bà ba mặn mà tình sông nước quê hương. Đại Giới Đàn cũng được tổ chức tại Làng Mai, đặc biệt là Đại Giới Đàn Hương Tích được tổ chức vào mùa hè năm 1994, để truyền giới luật cho 32 vị xuất gia (nam khất sĩ và nữ khất sĩ). Quy tụ rất đông Chư tôn đức các quốc gia hải ngoại vân tập về Làng Mai và tham dự vào Hội Đồng Truyền Giới, giới đàn kéo dài trong 9 ngày, rất trang trọng theo nghi thức của Phật giáo. Các buổi lễ đón Giao thừa, cũng được tổ chức rất đầm ấm và đầy đạo vị, có lễ chùa, có hái lọc đầu xuân, có mừng tuổi Thầy và các vị lớn tuổi, có ngâm thơ, bói Kiều và có trao cho nhau những lời chúc phúc trong năm mới.
Buổi lễ nào cũng được diễn ra trong không khí trang nghiêm, ẩn chứa những nét đặc thù dân tộc rất độc đáo, tạo được niềm tin yêu và an ủi cho người Việt tha hương của chúng ta. Vì quê hương bây giờ đã ngút ngàn xa ngái, không còn những ngày rằm mồng một theo mẹ đi lễ Chùa; không còn những đêm trăng thu cùng bạn bè rước đèn đi chơi; không còn những ngày nguyên đán để đốt hương tưởng niệm ông bà tổ tiên, và cũng không còn cái không khí bà con làng xóm để thăm nhau. Nên về Làng Mai cũng là một nơi để sống lại cảnh đầm ấm của gia đình, cái không khí quê hương mà bây giờ đã ngàn trùng xa cách.
Nhiều điều nho nhỏ nhưng cũng vô cùng cảm động, như khi mới đến Làng gặp đồng hương là đã thấy thân thiện rồi, không cần phải biết anh ở quê đâu, chị qua đây lâu mau rồi. Sống chung một thời gian thì lại càng đậm đà hơn, nên khi về thường hay nhắc nhau, nhớ sang năm về làng nghe, hay lời dặn dò của quý Thầy quý Sư cô: nhớ về nhà cố gắng tu tập nghe, là những gởi gắm đầy tình nghĩa thiết thân, đầy tình lưu luyến và sự chăm sóc cho nhau, như cha mẹ dặn dò con cái, như người thân trong một nhà lo lắng cho nhau.
Nhớ những mùa hè tại Làng Mai cũng hanh hao nóng bức, nhưng qua khung cảnh của đồng quê, có bóng cây che mát, có mái chùa thân thương, được nghe lời kinh sớm, tiếng chuông chiều, còn có tình đồng hương, có tình đồng đạo mà cảm thấy tâm hồn mát dịu như thời tiết của một ngày chớm xuân, một trời xuân thường hằng, một mùa xuân miên viễn, như mùa xuân của Thiền sư Mãn Giác:
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
Theo tác giả Trần Đan Hà
(Reutlingen, Đức Quốc)