Chủ nhật, 22/12/2024,


Chiếc nón quê hương (11/07/2009) 

Nón nầy che nắng che mưa

Nón nầy để đội cho vừa đôi ta

(Ca dao)

 

     Nón lá không xa lạ với chúng ta, ngày nay ở hải ngoại chỉ thấy nón lá xuất hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón và áo dài duyên dáng mền mại kín đáo của thiếu nữ Việt Nam nổi bật bản sắc văn hoá dân tộc, áo dài và nón lá là nét đặc thù của phụ nữ Việt Nam. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét đẹp riêng. Chiếc nón, đơn thuần chỉ là một vật dụng để che nắng che mưa rất phổ biến cho mọi người không phân biệt thành phần, tuổi tác mỗi khi ra đường. Ở thôn quê, nó hợp thành đàn như bầy cò trắng làm trắng cả cánh đồng, lao xao pha lẫn tiếng tiếng hát giọng hò trong những ngày mùa cấy lúa .

 

     Ở thành thị nó lá như dải lụa trắng di động trải dài xuôi ngược theo trên các con đường, gốc phố và sân trường học, chiếc nón lá trở thành món trang sức của phụ nữ, của các cô nữ sinh trung-học. Dường như họ tạm thời quên đi mái tóc thề đẹp đẻ để đội lên đầu chiếc nón bài thơ với dây quai đủ màu sắc. Quai nón qua tay các nàng cũng trở nên có lắm kiểu: bằng vải hoa, bằng nhung trắng, nhung tím, xanh, vàng... trăm màu ! Còn nữa, hai đầu quai sau khi gắng chặt vào thành nón còn buông thõng xuống một đoạn ngắn để đong đưa hai bên má cho tăng thêm nét duyên dáng của khuôn trăng .

 

     Nón lá có lịch sử lâu đời, chúng ta có thể thấy hình ảnh nón lá khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khỏang 2500 - 3000 năm. Nón lá gần với đời sống nhân dân tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ, ráo mồ hôi. Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:

 

Nón dấu: nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa

Nón gò găng hay nón ngựa: sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cưỡi ngựa

Nón rơm: Nón làm bằng cộng rơm ép cứng

Nón quai thao: người miền Bắc thường dùng trong lễ hội

Nón cối: người miền Nam rất sợ loại nón nầy xuất hiện vô nhà.

Nón cời: nón rách

Nón Gõ: Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa

Nón lá Sen: cũng gọi là nón liên diệp

Nón thúng: thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.

Nón khua: Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa

Nón chảo: thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp  nay ở Thái Lan còn dùng

Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang

Nón bài thơ: ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ

v.v...

 

     Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý nón lá có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu? Nón lá tuy giản dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay. Nghề chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì chằm nức vành. Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và miền Trung trong các làng quê sau các vụ mùa, ở các tỉnh miền Nam không thấy người ta chằm nón?

 

     Vật liệu làm nón tuy đơn sơ nhưng khó tìm loại lá làm nón, lá mọc ở những vùng núi, sau này người ta đem giống về trồng ở vườn, có tên Du Qui Diệp là lá làm tơi thời gian văn minh chưa phát triển, người ta dùng loại lá nầy làm cái tơi để  mùa đông chống mưa gió. Một loại khác là Bồ Qui Diệp là loại mỏng và mền hơn để làm nón lá.

 

     Ngày nay dù đã phát triển, nhưng trên những cánh đồng lúa xanh tươi ngoài Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che nắng, giống như con công đang xòe cánh. Người ta chặt lá nón non còn búp, cành lá nón có hình nang quạt nhiều lá đơn chưa xoè ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho những vùng quê có người chằm nón. Ở Quảng Nam ngày xưa vùng Bà Rén chuyên buôn bán nón lá, từ đó phân phối đến các chợ như chợ Hội An, có khu bán nón lá nhiều loại.

 

     Lá non lúc khô có màu trắng xanh, người mua phải phơi lá vào sương đêm cho lá bớt độ giòn vì khô, mở lá từ đầu tới cuồn lá, cắt bỏ phần cuối cùng, dùng lưỡi cày cũ hay một miếng gan, đặt trên nồi than lửa nóng đỏ, dùng cục vải nhỏ độn giống như cũ hành tây, người ta đè và kéo lá nón thẳng như một tờ giấy dài màu trắng, có nổi lên những đường gân lá nhỏ, lựa những lá đẹp để làm phần ngoài của nón. Người ta dùng cái khung hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, có 6 cây sườn chính, khoảng cách giống nhau để gài 16 cái vành nón tròn lớn nhỏ khác nhau lên khung. Cái khung phải do thợ chuyên môn làm kích thước đúng cỡ khi lợp lá và chằm nón xong, tháo nón ra dễ dàng. Nón thường chỉ 16 vành tròn làm bằng tre cật vót nhỏ đều nhau nối lại, Nón bài thơ nhẹ mỏng chỉ 2 lớp lá trong chen hình cảnh và các câu thơ, nón thường độ bền lâu hơn dày có 3 lớp phần trong lót thêm loại lá đót, (loại cây nầy giống cây sậy, khi trổ bông người ta lấy bông làm chổi). Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt lá thừa nức miệng nón và làm quai, nón rộng đường kính thường 41 cm, người ta phết phía ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước mưa không thấm qua các lỗ kim vào bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua 15 khâu, từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ...

 

     Thời gian chưa có chỉ cước người ta dùng bẹ lá cây thuộc loại thơm (hùm) tên khoa học Aloe (ngày nay tại Đức dùng cây Aloe chế biến nhiều loại kem dưỡng da như: Aloe Vera Gel,  Aloe Frist  Aloe Propolis Creme) tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt của lá, dùng bàn chải, chải lấy phần tơ dùng làm chỉ để chằm nón, hay dùng chỉ đoác. Nhưng sau nầy phát triển người ta dùng cước nhỏ bằng nylon, chằm nón có đường nét thanh nhã hơn. Nón lá đã đi vào thi ca bình dân Việt nam

 

Nón em chẳng đáng mấy đồng,

Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham

 

Nón em nón bạc quai vàng

Thì em mới dám trao chàng cầm tay

 

Tiếc rằng vì nón quai mây

Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm

 

 

     Nón quai thao, hay nón thúng các cô gái Bắc thời xưa chưa chồng thường dùng, ngày nay đến Hà Nội không còn thấy ai đội nón quai thao, trên đường phố cổ trầm mặc dưới bóng cây cổ thụ, thiếu nữ  Hà Nội che dù màu, đội mũ lát, đội mũ  thời trang, nhưng vào thăm Văn Miếu sẽ thấy trình diễn văn hoá, hát quan họ, các cô đều trang sức giống như thời xưa với chiếc nón quai thao (hình trên trong Văn Miếu)

 

     Thưở xưa con gái sau khi lập gia đình, bổn phận làm vợ, làm mẹ, họ chỉ chú trọng đến niềm vui tận tụy làm tròn bổn phận trong gia đình, xao lãng những vẻ đẹp bề ngoài..    

 

Chưa chồng nón thúng, quai thao

Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai

Chửa chồng, yếm thắm, đeo hoa

Chồng rồi, hai vú bỏ ra tầy giành.

 

 *

Túa ống tơ ngà tha thướt gió

Vàng vàng lá lụa nắng tươi xinh

Khuôn hoa e lệ trong khuôn nón

Say mắt chàng trai tiếc gửi tình

Nhung dép cong nghiêm bước thẳng đường

Ðâu ngờ tơ nón gió vương vương

Chàng về, mắt dắm sầu xa vắng

Cả một trời xuân nhạt nắng hường

(Chiếc nón quai thao - Anh Thơ )

 

     Đôi khi đội nón không phải che mua nắng, nhưng như là một trang sức thêm duyên dáng, trong các lễ hội đêm rằm dưới ánh trăng vàng,

 

Chẻ tre đan nón, kià nón ba tầm

Anh cho em đội xem hội cái đêm hôm rằm, là rằm tháng giêng.

 

     Miền Bắc thời xưa thường sử dụng loại nón mặt tròn đường kính khoảng 80 cm, cao 5 cm, quai nón có tua thao dài buông xuống

 

Cái nón ba tầm, quai thao mỏ vịt bịt bạc là nón ba tầm

Để em đội qua rằm tháng giêng

 

     Quan niệm về nhan sắc người đẹp xưa qua ca dao hữu tình, chiếc nón đã tạo thêm vẻ duyên dáng, nhưng không thể tồn tại với thời gian và định mệnh, những bóng hồng về chiều nhan sắc tàn phai ..!

 

Còn duyên nón cụ quai tơ

Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong

 

     Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng nghiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt giấu sau vành nón ấy mới cơ hồ e ấp, rạo rực vì những bâng khuâng ... 

                                   

     Mỗi thiếu nữ đều có một cái duyên để làm say đắm người khác phái. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài những điều đã được ca dao truyền tụng, Có nàng đẹp nhờ mái tóc thề hay cắt ngắn, đôi chân mày cong vòng như vần trăng non dưới vành nón lá:

                       

     Ở Huế, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng từ xa xưa cho đến bây giờ như: Phú Hồ, Phước Vĩnh, Dạ Lê, Triều Sơn, Nam Phổ, Kim Long, Dương Nỗ, Tân Mỹ, Hương Sơ, Mỹ Lam, làng Chuồn, bên dòng sông Như Ý, thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế làm nón bài thơ dáng thanh mảnh, độ mỏng, màu nón nhã nhặn người ta còn cắt những bức tranh với chùa Linh Mụ, cầu Trường Tiền, con đò trên sông Hương... và đặc biệt nhất là vài câu thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế.

 

Sông Hương lắm chuyến đò ngang

Chờ anh em nhé, đừng sang một mình

(Ca dao)

 

Sao anh không về thăm quê em

Ngắm  em chằm nón buổi đầu tiên

Bàn tay xây lá, tay xuyên nón

Mười sáu vành, mười sáu trăng lên

(Nguyễn Khoa Điềm)

 

Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay

Nón bài thơ e lệ nép trong tay

(Bích Lan)

 

     Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật 'trang sức' của biết bao thiếu nữ. Lựa nón, lựa quai, cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề.

 

Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ

Ngàn thông núi Ngụ đứng như mơ

Gió cầu vương áo nàng tôn nữ

Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ

 

     Nón bài thơ hiện hữu trên khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của phụ nữ Huế, dùng nón lá nâng hay đựng xoài, cũng tạo nên nét đẹp mỹ miều

 

 

Anh về Bình Định ba ngày

Dặn mua chiếc nón lá dày không mua

 

     Nón bài thơ đặc sản Huế nón Gò Găng ở Bình Định còn gọi là nón ngựa làm bằng vành tre cật, chuốt nhỏ như tăm, đan thành ba lớp mê sườn; bên ngoài phủ lớp lá kè non, chằm bằng những đường chỉ tàu trắng muốt và đều đặn. Trên đỉnh chóp được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ long-lân-qui-phụng. Quai nón được làm bằng lụa xanh hoặc đỏ, bản rộng và đều người ta chằm một chiếc nón ngựa phải mất cả tháng trời dày công nhọc sức. Vì vậy giá thành rất đắt, nó chỉ dành cho những người cao sang quyền quí, những chức sắc quan lại của triều đình. Dần dần theo nhu cầu của giới bình dân, nón ngựa được cải biên thành ngựa đơn rồi nón buôn, nón chũm, rẻ hơn nhiều. Các loại này đều không có chụp bạc, nó được thay bằng những tua ngũ sắc ở chóp nón cho đẹp. Ở các vùng làm nón, ngày cưới, nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng rể thì đội nón đi ngựa ; còn những nhà nghèo cũng ráng sắm đôi nón ngựa cho cô dâu chú rể đội đi trong ngày cưới. Vậy nên có câu ca dao:

 

Cưới nàng đôi nón Gò Găng

Xấp lãnh An Thái, một  khăn trầu nguồn

 

Hoặc là:

 

Lụa Phú Phong nên duyên chồng vợ

Nón Gò Găng khắp chợ mến thương

Áo hồng quần lụa vấn vương

Nghiêng nghiêng chiếc nón gió sương bên chàng.

 

     Ngày nay các cô gái làm nón hầu như không còn giữ được phương pháp làm nón ngựa nữa. Họ quen với công việc nhanh, giản tiện và dễ tiêu thụ của chiếc nón trắng mảnh mai - một sản phẩm của quá trình cải cách lâu dài, để làm loại nón này phải qua nhiều giai đoạn như: vấn sườn, lợp lá, chèn lá, chằm và nức. Việc làm lá đòi hỏi nhiều tính tỉ mỉ và kinh nghiệm lâu năm.

 

     Nghề nón là thuộc thị trấn Gò Găng, Nhơn Thành – An Nhơn. Nơi đây có một chợ nón lớn họp thường ngày từ 3 - 4 giờ sáng. Cứ hết một đợt làm được 25 - 30 chiếc thì bà con các vùng phụ cận lại mang nón đến bán và mua sắm vật liệu cho đợt sau. Mỗi tháng Gò Găng có thể cung cấp cho cả nước 50.000 chiếc nón. Gần đây nón Gò Găng còn được xuất khẩu sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia dưới dạng cải biên cho hợp với xứ người. Như vậy, từ vùng núi cao nguyên mưa nguồn cho đến các miệt vườn miền  Nam

 

     Đời sống văn minh, phát triển nhưng nón lá Việt Nam vẫn thuần túy nguyên hình của nó. ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng mênh mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời không đổi thay.

Theo tác giả Nguyễn Quý Đại

(dai.duc@arcor.de)

 

 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
Các bài khác: