Bạn bè phương xa hay gọi Phú Yên quê tôi là xứ Nẫu. Một lần, đồng nghiệp phương
Biển Qui Nhơn
Xung quanh chữ Nẫu dài lắm, xin tóm lược như sau: Năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào nhận trọng trách Tổng đốc Thuận Quảng (Thuận Hóa, Quảng Nam), ra sức củng cố cơ nghiệp đất phương Nam theo lời dạy của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Một dải hoành sơn, đủ để tạo cơ nghiệp muôn đời). Lúc ấy, Thừa Tuyên (đơn vị hành chính cấp tỉnh) Quảng
Do đặc điểm của vùng đất mới còn hoang hóa, dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc, dưới Thuộc là các đơn vị hành chính nhỏ hơn như phường, nậu, man. Phường là các làng nghề có quy mô như phường Lụa, phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức quản lý một nhóm nhỏ cùng làm một nghề, người đứng đầu gọi là đầu nậu. Sách Đại Nam Thực Lục (tiền biên) ghi rõ: “Nậu, nguyên nghĩa là làm cỏ ruộng, rồi chỉ làng xóm và sau nữa thành tên một đơn vị hành chính, quản lý một nhóm người có cùng một nghề”. Ví dụ: “Nậu nguồn” chỉ nhóm người khai thác rừng, “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối, “Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá, “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ, “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm... Do sự phát triển của xã hội Đàng Trong, năm 1726, chúa Nguyễn Phúc Chú (1697-1738) cử Đại ký lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi, chức năng của các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính như “Thuộc”, “Nậu” bị xóa bỏ. Khái niệm thành tố chung cấp hành chính “Nậu” được biến nghĩa dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ nhân xưng ngôi thứ ba. Từ “Nậu” không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ: Ví dụ:
- Chiều chiều mây phủ Đá Bia
Đá Bia mây phủ chị kia mất chồng
Mất chồng như nậu mất trâu
Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bơm.
- Tiếc công anh đào ao thả cá
Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu.
- Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên.
Từ chữ “Nậu” ban đầu, phương ngữ Phú Yên - Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi. Ví dụ: Ông ấy, bà ấy được thay bằng: “ổng”, “bả”. Anh ấy, chị ấy được thay bằng: “ảnh”, “chỉ”. Và thế là “Nậu” được thay bằng “Nẩu”. Nẫu đã đi vào ca dao Bình Định, Phú Yên khá mượt mà, chân chất:
Thương chi cho uổng công tình
Nẩu về xứ nẩu bỏ mình bơ vơ.
Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng
Tỉnh dài, huyện rộng, xã to
Nẫu lo phận nẫu, mình lo phận mình.
Còn nếu cán bộ cấp trên về ép việc này việc nọ thì cũng có câu phản kháng nhẹ nhàng:
Nẫu dìa (về) thì mược nẫu dìa
Lăng xăng lít xít nẫu chê nẫu cười.
Còn Ba Đà Rằng này tài sơ trí thiển Nẫu nói gì mược Nẫu (người ta nói gì mặc người ta), cũng bạo gan trao đổi đôi điều về “Nậu-Nẩu-Nẫu” như một nhàn đàm vui đón xuân. Rất mong các bậc cao minh vui lòng chỉ giáo để sáng tỏ thêm một từ phương ngữ đặc trưng của Nam Trung bộ.
Phan Thanh Bình
------------------------------
(Nguồn Pháp Luật TPHCM Online)