Đọc lục bát Lê Đình Cánh rất dễ nhận thấy chất dân gian thấm đẫm trong đó với không gian quen thuộc của làng quê Việt Nam nghìn đời như lũy tre xanh, cánh cò bay lả, dòng sông êm ả chở những câu hò... Lục bát Lê Đình Cánh nằm trong dòng chảy thơ “đồng quê”, gần gũi với lục bát của Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... thân thuộc với tâm hồn người Việt. Vì vậy, mượn hai từ “chân quê”, chúng tôi muốn nhấn mạnh nét cá tính của lục bát Lê Đình Cánh trên nền thơ truyền thống.
Đến với lục bát Lê Đình Cánh, người đọc sẽ được đắm chìm trong một “cõi xưa” thần tiên, dịu dàng hương bưởi, hương chanh, ngọt ngào lời ru, tiếng hát. Thơ ông đầy ắp chất liệu dân gian, ấy là “bến đò”, “sông quê”, “con đò”, “cánh cò”, “lời ru”, là “áo nâu sờn bạc”, là “quả cau”, “lá trầu”, là “ruột tằm tơ rối năm canh”,v.v... Những hình ảnh ấy đã trở thành linh hồn của ca dao Việt
Sông quê có một bến đò
Áo dây mực tím, học trò sang sông.
(Bến quê)
Trong ca dao và thơ xưa có bao nhiêu sông quê, bến đò như thế. Có khi con sông quê trở thành cái cớ để rút gần khoảng cách yêu thương: “Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”. Có khi là không gian tượng trưng để gợi nên nỗi vất vả, khó nhọc của người phụ nữ: “con cò lặn lội bờ sông”. Sử dụng lại không gian ấy, song Lê Đình Cánh đã đặt nó trong hai chiều thời gian đối nghịch tạo nên hình ảnh vừa gần gũi vừa mới mẻ. Người đọc cứ ngỡ mình đang trở về với những ngày xa xưa lắm, cứ ngỡ những hình ảnh ấy đã thuộc về một thời dĩ vãng rồi nhưng khi thấy chúng đi kèm với hình ảnh “áo dây mực tím” mới tin đó là điều có thật, là hiện thực đang diễn ra. Với sự đan xen đó, Lê Đình Cánh đã kéo truyền thống về gần với thực tại và ngược lại trong cái ngày nay vẫn luôn tỏa sáng cái ngày xưa.
Cũng như thế, hình ảnh quả cau, lá trầu đã trở thành một nét đẹp văn hóa của người Việt
Ở rừng tự hát ru nhau
Lá trầu chị héo, quả cau em già.
(Em đi)
“Chị” và “em” ở đây là những giáo viên trẻ, những “chiến sĩ văn hóa” (theo cách tôn vinh một thời) tình nguyện mang tuổi trẻ, mang cái chữ đến cho các em nhỏ, cho người dân những bản làng xa xôi. Âm thầm cống hiến, lặng lẽ hy sinh, khi nhìn lại tuổi xuân đã đi qua từ lúc nào, thời gian đã làm phai màu tóc, họ đã không còn cơ hội để “còn duyên” hay “hết duyên”. Tác giả đã chia sẻ nỗi niềm ngậm ngùi đó của họ bằng một hình ảnh day dứt: Lá trầu chị héo, quả cau em già. “Trầu cau” trong cấu trúc từ ghép đẳng lập là hình ảnh gợi hôn nhân, hạnh phúc, ở đây tác giả tách ra thành hai từ đơn có hai định ngữ đi kèm: “trầu chị”, “cau em”, lại còn “trầu chị héo”, “cau em già”. Chuyện trầu cau lỡ dở thành ra chuyện người lỡ dở. Sự chia cắt trong cấu trúc câu thơ kết hợp với việc sử dụng hình ảnh tài hoa đã tế nhị diễn tả tình cảnh “lỡ duyên” của những người con gái. Liệu họ có phải là những đại diện cho tuổi trẻ một thời “Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ Dẫu xa xôi gấp mấy cũng lên đường” đó chăng? Có phải vì vậy mà câu thơ tuy đơn giản song ngập tràn day dứt, chan chứa niềm cảm thông, chia sẻ?
Hình ảnh “tơ mối” cũng là hình ảnh khá gần gũi trong ca dao. Những chữ như “mối duyên”, “mối tình”, “tơ trời”, “duyên tơ”, “ông tơ, bà nguyệt”... để chỉ lương duyên, để hẹn ước, nhắn gửi, tâm tình:
Quay tơ phải giữ mối tơ
Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh.
(Ca dao)
Lục bát Lê Đình Cánh cũng có “tằm, tơ rối, mối tơ” mặc dù đã có cách diễn tả khác đi ít nhiều:
Ruột tằm tơ rối năm canh
Dẫu trăm mối đứt. Mối anh vẫn chờ.
(Người về Bảo Lộc)
Vẫn cùng ý nghĩa và bản chất ấy, chỉ khác nhau là nhân vật trữ tình trong ca dao ý tứ mượn mối tơ để nhắn nhủ, nhắc gửi bạn tình niềm tin vào tình yêu chung thủy, còn nhân vật trữ tình trong thơ Lê Đình Cánh như muốn đáp lại lời nhắn gửi ấy bằng việc khẳng định sự sắt son trong quyết định lựa chọn tình yêu của mình. Bốn tiếng “Mối anh vẫn chờ” tách ra thành một vế như một tiếng nói dõng dạc của tình yêu chung thủy.
Đến với bất cứ bài lục bát nào của Lê Đình Cánh cũng thấy thấm đẫm chất ca dao. Ấy là thứ thơ được chưng cất từ hồn quê đất nước mà mỗi dòng thơ là một dòng nước mát ngọt ngào và sâu lắng. Mỗi hình ảnh hình như đều có sức lay động tâm hồn người đọc, gọi dậy hương vị thân thương của đồng đất quê hương.
Là người con của xứ Thanh, mảnh đất Bắc miền Trung nắng gió, hồn quê trong thơ Lê Đình Cánh còn được tái hiện trong những cái mặn mòi, những cái gầy gầy, thương thương, cố gồng mình lên để chịu đựng, để sống. Có lẽ vì thế mà Lê Đình Cánh đã gặp gỡ Trần Mai Ninh trong cảm nhận cái “Gió Tuy Hòa” này chăng:
Câu thơ gọi gió Tuy Hòa
Gió thương cây lúa như là xứ Thanh
Quê mình dằng dặc chiến tranh
Đất tan bão lửa. Trời xanh lại về.
Cảm nhận gió Tuy Hòa mà thương cho cây lúa xứ Thanh, nhìn nắng lửa miền Trung, dừa Quy Nhơn, Bình Định, sông Trà Khúc mà nhớ quê mình cũng “nắng bột dừa tơ”, những “con đường rau má”. Cũng như ca dao, nghĩ về quê hương không thể thiếu bóng hình của mẹ. Trong thơ Lê Đình Cánh hình ảnh mẹ cứ trở đi trở lại và lúc nào cũng vẫn là hình ảnh người mẹ xưa khốn khó, nhọc nhằn:
Áo nâu còn thẫm mưa phùn
Còn hoai vị cỏ, sực bùn lúa non.
(Mẹ ra Hà Nội)
Còn có thể tinh hơn nữa không. Mẹ ra đến Thủ đô mà vẫn mặc nguyên chiếc áo thường mặc ở nhà - chiếc áo nâu màu bùn đất. Nhưng không phải chiếc áo nâu mới đâu, mà là chiếc áo đã cũ, cũ lắm vì con nhìn thấy và ngửi thấy: áo còn “thẫm mưa phùn”, còn nguyên vị “cỏ hoai” và mùi bùn lẫn với mùi lúa non. Mẹ như vừa đi làm cỏ về và vừa từ dưới ruộng bước lên. Một bà mẹ “chân quê” và đứa con trai của mẹ qua bao năm sống ở thị thành cũng vẫn giữ được “hồn quê” trong cách nhìn, cách cảm. Bà mẹ ấy sẽ có con trai ấy cũng là hợp lẽ.
Thơ Lê Đình Cánh còn nhiều lắm những mặn muối cay gừng, đất thấp trời cao, những bây chừ, những đường rau má... Chúng giản dị và hồn nhiên in sâu vào tâm trí để rồi khi cảm xúc dâng trào tiếng thơ bật ra cũng là tiếng lòng của người con xa quê. Cội rễ xứ Thanh còn in dấu trong những địa chỉ: núi Nhồi Vọng Phu, đền Sòng, chùa Tiên, Ngàn Nưa, Bảo Lộc, rộn rã trong “tiếng cồng Bà Triệu”, vang mãi “lời thề nước non” nơi “Lam Sơn rừng núi ba bề” và vọng mãi “câu hò trên ngã Ba Bông”. Hơn thế, lại còn đưa vào thơ cách nói, ngôn ngữ đặc trưng của vùng quê xứ Thanh để đứng đâu, ngồi đâu cũng không lẫn được:
Bây chừ tôi ở xa quê
Ngược đường sông Mã người về thăm ai.
(Người về Bảo Lộc)
Nếu thay “bây chừ” bằng “bây giờ” thì hiệu quả của câu thơ sẽ giảm đi nhiều. Là người xứ Thanh xa xứ khi đọc câu thơ ấy sẽ không khỏi bâng khuâng xúc động vì như gặp lại chính mình với ngôn ngữ của mình trong đó. Người khác xứ thì bất ngờ, thú vị vì được biết thêm một nét văn hóa vùng, miền. Có sống trên đất Thanh mới thấy rõ sắc thái đa dạng, phong phú và rất đặc trưng của ngôn ngữ địa phương nơi này. Đây là vùng ngôn ngữ cổ, người dân vẫn còn lưu giữ vốn ngôn ngữ cổ và khi cần giới thiệu, làm quen thì không cần xưng danh chỉ cần nói với nhau như Lê Đình Cánh nói trên đây thì “ôkê!” đồng hương đây rồi, xứ Thanh đây rồi!
Điều đáng kể hơn nữa là Lê Đình Cánh còn “cá tính hóa” quê hương đến tận cổng ngõ nhà mình. Vùng Thọ Xuân bán sơn địa “trăm năm cây lúa vẫn gầy”, ở nơi ấy ngay cả nhịp sào tre cũng là “nhịp gầy”, bước chân mẹ cũng là bước chân “gầy”, vậy nên cứ tội tội, thương thương:
Run run mẹ bước lên tàu
Vị bùn vẫn thoảng áo nâu quê nhà.
Cái long đong, vất vả nhuốm vào cả lương duyên. Nơi ấy tình yêu dễ thường cũng hay lận đận, dở dang:
Lỡ đò hết một thời trai
Thương người con gái lỡ hai lần đò.
(Người về Bảo Lộc)
Hình ảnh “lỡ đò” mà tác giả dùng ở đây khá ấn tượng. Hình ảnh chỉ sự dở dang, lỡ làng này vẫn thường gắn với người con gái. Bởi lẽ người con gái lấy chồng được ví như một lần sang sông. Con đò sang sông được ví với hình ảnh người con gái đi lấy chồng. Tuy nhiên, ta thường bắt gặp nỗi đau “lỡ bước” vì phải “sang sông”, ám chỉ tình duyên ngang trái như tiếng khóc ai oán này:
Cũng là thôi cũng là đành
Sang sông lỡ bước riêng mình chị đâu.
(Lỡ bước sang ngang - Nguyễn Bính)
Còn nỗi đau “lỡ đò” trong thơ Lê Đình Cánh lại là nỗi đau khác, nỗi đau nhìn người mình yêu “lên đò sang sông” mà bất lực. Trong câu thơ của Lê Đình Cánh có sự cộng hưởng nhiều nỗi đau. Có thể hình dung cảm xúc nỗi đau trong câu thơ Lê Đình Cánh như thế này: có nỗi đau của người “lỡ đò” là chàng trai khi trở về thì người yêu đã “sang ngang”. Và, có lẽ là nỗi ám ảnh của tình yêu đầu, nên lần “lỡ đò” ấy đã làm “hết một thời trai” của một tình yêu mãnh liệt. Song cô gái, không phải là không đáng thương “thương người con gái lỡ hai lần đò” cứ ngỡ người yêu không trở về nên đành ngậm ngùi sang ngang. Nhưng sang sông rồi nhìn lại thì thấy người yêu đang đứng đó. Diễn tả nỗi đau hai lần nhân lên ấy tác giả không che giấu cảm xúc “thương người con gái lỡ hai lần đò”.
Trong trái tim đa cảm, con sông quê hiền hòa cũng trở thành đối tượng để giận hờn, trách cứ. Có phải vì sông quê chảy mà “lỡ câu hò lứa đôi” chăng?
Có thể gặp rất nhiều, rất nhiều cách nói ấy trong lục bát Lê Đình Cánh. Cách nói giàu hình ảnh, những hình ảnh gắn bó với cảnh quê, người quê, hồn quê khiến lục bát Lê Đình Cánh luôn gợi nhớ về nguồn cội, có khả năng đánh thức tình yêu nguồn cội. Chăn thơ trên cánh đồng lục bát, Lê Đình Cánh đã nuôi dưỡng nguồn thơ ấy bằng nguồn vốn thi liệu của thơ ca dân tộc. Vì vậy, đọc lục bát của ông cứ ngỡ được trở về với cánh đồng, mái rạ, được hít thở mùi nồng nồng, oai oải của bùn rạ ngấu và trong lồng ngực như có tiếng thì thầm: Quê hương ơi.
Diệu Thúy - Thu Trang
(Trường Đại học Hồng Đức)
------------------------
Nguồn: ThanhhoaOline