Hát đúm là thể loại dân ca của đồng bào Mường ở huyện Ngọc Lặc. Hát đúm chủ yếu là dùng để hát đối đáp giao duyên nam nữ, nhưng cũng có nhiều bài hát đúm mang tính tự sự hoặc kể lại một sự kiện lịch sử nào đó. Hát đúm của người Mường Ngọc Lặc khác với hát đúm của người Việt (Kinh) ở vùng Phú Thọ, kể cả làn điệu đến việc đặt câu từ.
Về nội dung, hát đúm của người Mường Ngọc Lặc rất phong phú. Thường là do người hát linh hoạt đặt ra để đối đáp với “đối phương” trong khi hát giao duyên nhằm so tài cao thấp giữa hai “phe” trong cuộc hát, nên những bài hát đúm không đòi hỏi nhất thiết phải rập khuôn theo bài đã có sẵn như những bài “xường cổ” trong luật hát xường ở Thiết Ống (Bá Thước, Thanh Hóa) – trừ những bài hát đúm mang tính tự sự hoặc có nội dung kể lại các sự kiện lịch sử. Do đó, trong khi tham gia cuộc hát, đòi hỏi người hát phải biết linh hoạt, sáng tác kịp thời, phù hợp với nội dung mới đối đáp kịp với “đối phương” tương tự như hò đối đáp ở miền xuôi. Trong khi hát nếu không may một bên bị thua thì phải mời trầu bên được. Có thể nói, đây là một chi tiết nhằm tạo cho cuộc hát thêm say sưa, lãng mạn.
Thương... thương... nhớ... nhớ...
thương... thời... thương
Miếng trầu là ngãi tương tư
Không ăn cầm lấy cũng như ăn rồi...
Miếng trầu là ngãi tương vàng
Không ăn cầm lấy cho nàng được... vui.
Hát đúm của người Mường Ngọc Lặc thường được diễn ra vào ban đêm khi làng có lễ hội hoặc có thanh niên nam nữ ở làng (hoặc Mường) khác đến chơi làng (hoặc Mường) sở tại. Thanh niên nam nữ làng sở tại chờ cho tối đến là kéo tới nhà có khách lạ, sau khi chào hỏi xin phép chủ nhà, được chủ nhà đồng ý, vậy là họ têm trầu vào đĩa đưa ra mời khách rồi hát câu “mở lời” mời khách cùng hát đúm đối đáp. Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa mang đậm nét nhân văn độc đáo. Các câu hát đúm nhất thiết chỉ được sáng tác theo thể loại ca dao dân ca ở dạng “lục bát” hoặc “lục bát biến thể”, ngoài ra không được sáng tác theo thể loại văn vần khác. Ví dụ:
... Biết nhau từ thuở còn thơ
Cùng nhau sàng cát trong tờ mo nang
Đuổi nhau chạy khắp đường làng
Tranh nhau từng chiếc lá vàng đánh rơi
Giận nhau thể chẳng cùng chơi
Hôm sau gọi có nửa lời lại sang
Giờ đây em bắc anh nam
Đường xa bái ngái biết làm sao đây.
hay như:
... Chân đi chân đứng chân ôi
Chẳng đi chẳng đứng chân ngồi lại đây
Ngồi buồn tính đốt ngón tay
Tính đi tính lại ngón này hơn trăm
Tính tháng rồi lại tính năm
Tính năm rồi lại tính ngày
Tính đi tính lại ngón này hơn trăm
Nhớ ai hôm sớm đằm đằm
Chiếu chẳng muốn nằm cơm chẳng muốn ăn...
(Bài “Chân đi” - đúm giao duyên đó là những bài được người hát sáng tác theo thể thơ “lục bát” hoặc “lục bát biến thể”)
Lại có những bài biến thể rất phóng túng như:
Anh đi lính thú thuở nhà vương
Việc quan khó nhọc nàng có thương anh cùng
Nằm đất nằm cát nằm vùng
Nằm đất nằm cát nằm cùng gió sương
Không chiếu lại cũng chẳng giường
Anh đi tuần thú phải nằm bờ nằm
bụi nàng có thương chăng là
Ngó xuống sông nước chảy sa sá
Ngó lên rừng những lá cùng cây
Đau đớn lòng dạ anh thay hỡi nàng
Anh đi lính thú ở Cao Bằng
Việc quan khó nhọc nàng biết
chăng nàng hời...”
(Bài “Đúm lính kể khổ” mang tính tự sự)
Điều đặc biệt là hát đúm của đồng bào Mường Ngọc Lặc được sáng tác và hát bằng tiếng Kinh, nhưng trong làn điệu lại mang đậm nét cách phát âm của tiếng Mường, nói một cách cụ thể hơn, hát đúm của người Mường, Ngọc Lặc có âm điệu của hát “xường” – một thể loại hát dân ca Mường – ví dụ: Khi cất giọng hát người hát thường vào đề bằng từ: .... thương ... thương .... nhớ ... nhớ ... thương... thương... và người nghe (tức là người ở phe “đối phương”) sẽ hát đế đệm theo (như kiểu tiếng đế trong hát chèo) bằng các từ: Xường... xương... xướng... hái... ài... ới (nghĩa là thương nhiều lắm anh ơi) nếu người đệm là nữ, hoặc hai từ “ài... ới” sẽ được thay bằng hai từ “ời... ới”, nếu người hát đệm là nam, cách xưng hô trong “hát đúm đối đáp” của người Mường Ngọc Lặc nam nữ thường gọi nhau là “anh”, là “chị” điểm này hơi giống với cách xưng hô của các “liền anh”, “liền chị” quan họ Bắc Ninh).
Có lần tôi được nghe bà cụ Niu (năm 1964 là 102 tuổi) ở làng Cống, xã Cao Khê, nay là thôn Cao Hưng, xã Ngọc Khê (Ngọc Lặc) kể lại rằng, về thời gian ra đời “hát đúm” có trước “hát xường”, điều này không biết có chính xác không, sau này cần phải có sự khảo cứu lại, nhưng theo tôi nghĩ “hát đúm” của người Mường vùng Ngọc Lặc là một trong số các làn điệu và hình thức hát dân ca cổ điển của người Mường và là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo vừa “dân dã lại vừa bác học”. Chỉ tiếc rằng ngày nay “hát đúm” của người Mường Ngọc Lặc đã bị dòng thời gian che lấp, hầu hết những người một thời say mê với những đêm hát giao duyên đầy lãng mạn đã về “bên kia thế giới”, số còn lại chẳng được mấy và tất thảy các cụ đã ở vào tuổi “thượng thượng thọ” cả rồi nên không mấy ai còn quan tâm tới hát đúm nữa.
Trên đây là mấy nét về thể loại dân ca hát đúm của đồng bào Mường ở Ngọc Lặc, tôi mạo muội giới thiệu và hy vọng có sự trao đổi lại của độc giả. Thiết nghĩ có lẽ các cơ quan chức năng cần sưu tầm, khôi phục lưu giữ lại loại hình sinh hoạt văn hóa đáng quý này.
Bùi Văn Trinh
(Nguồn: ThanhhoaOnline)
![]()
Bài viết rất chi tiết.rất hay.rất mong được sự giúp đỡ khi mình cần tài liệu về nền văn hóa lâu đời của Ngọc Lặc.thanks!bạn nào có gì hay hay về quê hương Ngọc Lặc giàu đẹp hãy gửi qua email or liên hệ qua số điện thoại cho mình với.thanks!
![]()
Bài viết rất chi tiết.rất hay.rất mong được sự giúp đỡ khi mình cần tài liệu về nền văn hóa lâu đời của Ngọc Lặc.thanks!bạn nào có gì hay hay về quê hương Ngọc Lặc giàu đẹp hãy gửi qua email or liên hệ qua số điện thoại cho mình với.thanks!
![]()
minh la nguoi ngoc lac rat muon lam quen voi cac ban la nguoi ngoc lac, cam thuy , thach thanh , bathuoc dang song o hn qua sdt 0989963214
![]()
minh la mot nguoi doc bai viet nay du xa que nhung minh cam thay nhu duoc song lai vao cai ngay le hoi cam on bai viet nay minh se thuong xuyen doc trong nhung luc nho nha
|