Ngày xưa, một nhà nho tên là Lê Quát, học trò của
Theo dòng lịch sử lâu đời của Việt Nam thì Phật giáo được truyền vào đất nước chúng ta được biết một cách rõ ràng nhất là vào thời Sĩ Nhiếp, thời đó đã có một số ngôi chùa ở tại Luy Lâu, sau đó có Thiền sư Ðồ Lê đến đây tu tập, rồi từ đó các chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Ðiện được xây dựng. Cũng được biết chùa Khai Quốc do triều Lý Nam Ðế xây dựng mà bây giờ được gọi là chùa Trấn Quốc, hiện ở tại Hồ Tây – Hà Nội. Về sau các chùa trong các đời Lý, đời Trần tiếp tục mọc lên rất nhiều cũng là để đáp ứng lại lòng tin tưởng của người con Phật. Ngôi chùa đã lan tràn khắp nơi khắp xứ, sống một cách khiêm tốn, không ngạo nghễ khoe khoang, cùng với mọi người dân đồng lao cộng khổ và ngôi chùa đã trở thành hình tượng thân thương, nó đi vào lòng người và nó cũng đã đi vào ca dao, tục ngữ:
- Con chùa vua nước
- Ðất vua chùa làng
- Ăn mày cửa Phật
- Chùa rách Phật vàng.
- Sống ở nhà già ở chùa
- Trẻ vui nhà già vui chùa
- Trốn chúa ở chùa
- Lên chùa thấy Phật muốn tu
- Ba cô đội gạo lên chùa
- Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa
- Gần chùa gọi Bụt bằng anh
- Xa chùa trống vắng, gần chùa inh tai.
Hoặc:
- Chùa làng dựng ở xóm côi,
Sớm khuya hai buổi nghe hồi chuông ngân
- Con ai đem bỏ chùa này
- Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền
- Biển Ðông sóng dợn cát đùa,
Sánh đôi không đặng lên chùa anh tu.
- Bình Lục có núi Con Bùa,
Trông sang Ðạm Thủy có chùa Ngọc Thanh.
- Bên chợ Ðông Ba tiêng gà eo éc,
Bên chùa Thọ Lục, tiếng trống sang canh.
Giữa sông Hương gợn sóng khuynh thành,
Ðêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa nghiêng.
- Ba phen tàu hổi cả ba,
Phen này hổi nữa lên chùa đi tu.
- Lên chùa thấy phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền
- Ðầu làng có một cây đa,
Cuối làng cây thị, đàng xa ngôi chùa.
Dù ai đi sớm về trưa ,
Xin anh nghỉ bóng cây dừa nhà em.
- Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ,
Xem chùa Thê Húc, xem đền Ngọc Sơn,
Ðài nghiên Bút Tháp chưa mòn,
Hỡi ai xây dựng nên non nước này.
Chùa là cái gì gần nhất với tâm thức người dân cho nên biểu tượng đó sẽ khiến cho người ta vin vào để nói những cái gì người ta muốn nói. Nhưng đó là nói về người ở chùa mà không phải là nói về chùa. Câu sau đây mới thực sự nói về chùa:
- Rủ nhau xuống bể mò cua,
Lên non bẻ củi, vào chùa nghe kinh.
Xuống bể mò cua, lên non bẻ củi là nói dân ta gắn liền với non, với nước và đồng thời cũng gắn liền với chùa. Gắn liền với non với nước là để nuôn sống thân. Gắn liền với chùa là để nuôi sống tinh thần: Ðến chùa nghe kinh.
Trong thơ văn Việt
“Quê tôi có gió bốn mùa,
Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm.
Chuông hôm gió sớm trăng Rằm,
Chỉ thanh đạm thế âm thầm thế thôi.
Mai này tôi bỏ quê tôi,
Bỏ trăng bỏ gió chao ôi bỏ chùa”.
Nhà thơ trên đây đã nói lên cái tâm tình của người dân Việt
“Làng tôi nhỏ bé xinh xinh,
Chung quanh có lũy tre xanh rườm rà,
Trong làng san sát nóc nhà,
Ðình làng lọp ngói có vài cây cau,
Chùa làng rêu phủ mái nâu
Dân làng thờ cúng để cầu bình an”.
(Ca dao Việt
Chùa còn là nơi dạy thuật làm người, thuật luyện tâm: Nhất thiết duy tâm tạo.
Ngày xưa có một nhà hiền triết tên là Socrate thời cồ Hy Lạp. Một hôm đi trên đường ở thành A-ten thấy một chàng thanh niên đi ngược chiều trở lại, chàng ta đang hân hoan tự mãn với cái mũ, vớỉ bộ áo quần, với đôi giày mới bảnh bao của mình, nhà hiền triết lấy gậy chặn lại. Khi bị chặn lại, chàng thanh niên trong lòng đầy tự mãn hỏi rằng:
- Ông muốn mua cái mũ này sao?
- Không, tôi không muốn mua mũ.
- Hay là ông muốn mua bộ áo quần này?
- Không, tôi cũng không muốn mua bộ áo quần.
- Hay ông ưa mua đôi giày này?
- Không, tôi cũng chẳng muốn đôi giày.
- Vậy thì ông muốn gì mà chặn tôi lại?
- Tôi muốn anh chỉ cho tôi chỗ nào dạy cách học làm người?
Nếu như mất tư cách làm người, thì cái mũ đó không thể gọi cái mũ đội trên đầu người! Cái áo đó cũng không phải là cái áo mặc vào người và đôi giày kia cũng chẳng phải giày để đi vào người. Cho nên phải học cách làm người cho ra người mới là cách cơ bản cho tất cả mọi thứ. Khi cách làm người còn thì mọi sự tốt đẹp còn, khi cách làm người không còn thì mọi sự tốt đẹp chỉ là sự tốt đẹp bên ngoài.
Do đó, chuyện làm chùa chúng ta phải ý thức rõ ràng là làm thế nào để sự đi chùa và ngôi chùa đó luôn luôn ấp ủ lòng từ bi, yêu thương, và ngôi chùa là nơi phát huy được trí tuệ sáng suốt, giúp ích cho đời sống của chúng sinh, của mọi người mỗi ngày mỗi thăng hoa, mỗi ngày mỗi xa dần chỗ chỗ tối tăm đau khổ mà bước lên cảnh an lạc giải thoát. Làm chùa như thế tức nhiên ai cũng đồng tình hết, và chắc chắn rằng ngôi chùa như thế sẽ là nơi luôn có những hàng Phật tử, những bậc cao quí, thành phần trí thức đến chùa để học hỏi tiến tu. Cũng như trước đây trong thời Bắc thuộc, các ngôi chùa của chúng ta chính là nơi đào tạo nhân tài cho đất nước. Thời kỳ Bắc thuộc, nước ta chưa có sự học, đến triều đạl nhà Lý mới mở khoa thi Tam trường. Vậy thì trong các thời kỳ ấy, các nhà trí thức của đất nước của chúng ta học ở đâu? Phần nhiều đều dựa vào chùa. Thành thử ngôi chùa đã đóng góp công lao với đất nước rất lâu xưa trong lịch sử, một sự đóng góp thật sự, không có một hậu ý gì khác, nghĩa là muốn hòa mình cùng vinh cùng nhục với đất nước với toàn dân để xây dựng một đất nước an lành hạnh phúc.
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
---------------
Bài đã đăng trên tuần báo Giác Ngộ