Thứ sáu, 26/04/2024,


Trương Nam Chi từ "Dốc thiêng" đến "Nỗi buồn Pha lê" (Đặng Huy Giang) (19/04/2015) 


Bìa tập thơ Nỗi buồn Pha Lê

 

           Ngay ở bài thơ đầu tiên Là em… trong Dốc thiêng (NXB Hội Nhà văn 2013), ta đã bắt gặp nét khác trong cách dụng ngôn, dụng từ của thể thơ trên sáu dưới tám truyền thống của Trương Nam Chi. Những từ ngữ mạnh như “chướng”, “kiêu hãnh”, “mai phục”… tự dưng làm câu thơ rắn rỏi hẳn lên, có cá tính hẳn lên: Bụi em phiêu bạt thiên hà/ Gặp cơn gió chướng la đà bay lên/ Mưa em rơi giữa nhớ quên/ Một hôm kiêu hãnh tràn trên sông hồ/ Nắng em mai phục bất ngờ… Đến Đọc thơ bạnNghiệp, mạch thơ lại chuyển sang hướng khác với sự chắc nịch cần thiết: Câu thơ/ Nào dễ/ Thay lời áo cơmNghiệp thơ nhiều lắm thác ghềnh. Ấy là khi nhà thơ nhìn vào nghiệp thơ nói chung mà đúc rút ra sự trải nghiệm của cá nhân mình. Nhưng đến Hun hút hoàng hôn… có khổ thơ như được buột ra thật tài hoa: Ngồi buồn/ Lặng ngắm mây bay/ Tiễn thu qua ngõ, tiễn ngày qua đêm…

 

           Nêu thế để thấy: Cung bậc của lục bát, nhiều khi cũng lên bổng xuống trầm lắm, cũng có khả năng “bao sân” lắm và cũng nhiều khi ít bị gò bó trong “đường ray” của niêm luật vốn mang tiếng là chặt chẽ, khó tính.

           Sang đến Nỗi buồn pha lê (NXB Hội Nhà văn 2014), những câu thơ nhún nhảy, thanh thoát, có hàm ý, có thân phận và rất nữ tính ngày như một dày đặc hơn. Có thể dẫn chứng: Ơ này! Nhan sắc tôi ơi/ Cuộc vui trần thế chưa vơi đừng về và Ơ này! Nhan sắc đàn bà/ Bao giờ gỡ sạch/ Lời ra tiếng vào trong Nhan sắc; Thời gian rạn vết chân chim/ Trách hờn chi những nổi chìm thế gian trong Tàn tro; Chớp mi/ Là/ Đến hoàng hôn/ Vân vi gì/ Những vuông tròn/ Thế nhân trong Vuông tròn thế nhân; Một mình một/ Bóng/ Liêu xiêu/ Một giăng mắc/ Một…/ Bao nhiêu/ Cho vừa trong Miền vô ưu; Thiên đường/ Đã/ Chật ước mơ/ Len vào đâu/ Một câu/ Thơ lạc vần trong Mồ côi; Đêm qua thương nhớ/ Nở đầy lối/ Đi trong Trinh nữ; Mẹ cho/ Duyên/ Lặn vào trong/ Một hôm đượm nắng/ Duyên/ Bong/ Ra ngoài trong Duyên; Xa rồi còn một cái tên/ Khi buồn mình tự hát lên ru mình trong Tự ru; Vịn vào có, vịn vào không/ Thỉnh kinh Bát Nhã tụng trong tim mình trong Họa mi vẫn hót; Biết rằng mình/ Đã người dưng/ Thì thôi xem nhé/ Chưa từng/ Biết/ Nhau/ Em về/ Chưng cất niềm đau/ Lạ chưa!/ Kỷ niệm giấu đâu cũng/ Thừa trong Lạ chưa…

           Trong đó, những từ như Gỡ sạch trong Bao giờ gỡ sạch lời ra tiếng vào, Một giăng mắc trong Một giăng mắc một bao nhiêu cho vừa, Chật ước mơ trong Thiên đường đã chật ước mơ… được coi là những chi tiết mới và lạ. Nhìn để cảm được thương nhớ cũng như một loài hoa trong Đêm qua thương nhớ nở đầy lối đi, thì quả là độc đáo, không dễ viết.

           Thơ lục bát của Trương Nam Chi thường ngắt dòng, không theo một nhịp nào cụ thể. Điều này tạo đà cho nhịp điệu thêm tung tẩy, sắc màu tình cảm thêm khoáng đạt và hình thức thêm tươi mới, sinh động. Đọc thơ chị, ta càng hiểu thêm: Chính nội dung đã quy định hình thức, góp phần quyết định hình thức và trong sáng tác nói chung, không có hình thức (thể loại) nào bị coi là cũ cả.

           Trong Nỗi buồn pha lê, có một bài thơ thật ấn tượng, nếu không muốn nói là ấn tượng nhất đối với tôi. Bài thơ có tên rất mô đéc như tên gọi của nó - Hậu hiện đại:

Bác Cò
Chị Vạc
Anh Nông
Cả ba xăng xái
Vặt
Lông Cô Gà
Vặt
Xong chà trấu lên

Xát thêm tro nữa
Thế

Hụt hơi
Quạ khoang tiếp sức
Đến nơi
Thấy…
Mèo đang
Diễn
Trò
Chơi hội đồng!

 

 

Hà Nội, tháng 3 năm 2015
Nhà thơ Đặng Huy Giang
(Nguồn: Báo Hà Nội mới)

 

 

BỚ HỒN CON CHỮ… VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “NỖI BUỒN PHA LÊ” – THƠ TRƯƠNG NAM CHI

 

           Những lúc bứt thoát được những hệ lụy cuộc sống, tôi chỉ thích được lang thang lên mạng, mong bắt gặp một câu thơ, một dòng văn nào đó gần gũi với tâm trạng để ru dỗ mình bằng những phút giây đồng điệu.


           Sự đồng điệu chẳng dễ gì gặp gỡ trong hiện thực quá ư chộn rộn chuyện cơm áo gạo tiền. Thường những lúc vậy, tôi hay lêu bêu vào trang giới thiệu tác phẩm mới của Tủ sách Văn Tuyển, một trang mạng thuần túy văn học (vantuyensaigon.net).


           Và rồi chiều nay… bắt gặp ở đây một thi phẩm mới toanh, mang cái tựa đề nhè nhẹ miên man: Nỗi Buồn Pha Lê, của Nhà thơ Trương Nam Chi. Tên của Người, tên của thi phẩm và thể thơ Lục Bát, gần như cùng một lúc xui giục cú kích chuột.


            Vốn rất thích thơ Lục Bát, một dạng thức thi ca hoàn toàn Việt, là của người Việt, và hầu như chưa bị tác động, biến đổi gì nhiều trong dòng chảy thi ca đang ngồn ngộn tiếp nhận nhiều trào lưu thơ hiện đại, nên cái quốc hồn quốc túy luôn chảy xiết trong lòng câu thơ Lục Bát từ xa xưa cho đến bây giờ. Dù rất nhiều nhà thơ từ thế hệ này sang thế hệ khác trên thi đàn Việt, dày công vận dụng thi tài của mình để cải cách, nâng cao tính nghệ thuật cho thứ ngôn ngữ trực quan, giao tiếp nhưng mang đầy âm điệu, nhạc tính rất riêng biệt của người Việt. Dẫu vậy, trước bao nhiêu biến tấu tài hoa của bao thế hệ thi nhân, thể thơ sáu - tám vẫn giữ được nguyên vẹn hình hài vốn có của nó, vẫn là thứ phương tiện gần gũi thân quen để người làm thơ chuyển tải tâm cảm đến với người yêu thơ, từ Tâm đến Cảnh.


           Dĩ nhiên, với những lợi thế ấy, thơ Lục Bát đã được nhiều, rất nhiều nhà thơ chạm vào nên cũng dễ bị “bình dân hóa”, sáo mòn, cũ kĩ… nếu nhà thơ không bị rù quyến thật sự để gởi gắm hết hồn vía và luôn làm mới nó.


           Trở lại với tập Nỗi Buồn Pha Lê, từ cú kích chuột đầu tiên, dòng đầu tiên, trang đầu tiên của Nỗi Buồn Pha Lê, tôi hơi bị giật mình:


    Bớ
Hồn con chữ
Bơ vơ
Về đây
Xích lại
Cho thơ gieo vần…

(Gọi hồn)


           Mới ghé vào, mới đặt nửa bàn chân vào cõi thơ của Trương Nam Chi, là chạm ngay một lối cấu trúc khá đặc biệt, mới mẻ và một cảm giác khắc khoải thống thiết của người đang cầu hồn, cái hồn vía chữ nghĩa. Phải thừa nhận rằng cái hồn vía chữ nghĩa trong thế giới thơ hôm nay đang bị loãng tan mờ nhạt, bởi sự xâm thực của đời sống lệch nghiêng về phía quá thực dụng.


           Sự tâm cảm giữa một người viết và một người đọc, có lẽ là cốt lõi thành công hay thất bại của một thi phẩm. Và tôi, người đọc. Người đọc thì bao giờ cũng muốn tìm thấy cái cảm xúc thật, trong mong muốn, ước ao tìm thấy phần hồn qua xác chữ. Sự đồng cảm ấy cũng đã xúi giục tôi bước đi tiếp đến tận cùng 99 bài thơ trong Nỗi Buồn Pha Lê.


           Đọc từ đầu đến cuối, rồi lại đọc… và… đọc, tôi đọc đến lần thứ ba và không thể không viết vài dòng cảm nhận khi tìm thấy cho mình một khoảng lặng đầy suy tư:


           Trong bài Chiếc Lá, viết theo dạng thơ tứ tuyệt, chỉ bốn câu, bằng dung lượng của một bài hài cú, cũng đầy đủ yếu tố chiêm nghiệm và giải quyết rốt ráo tâm ý và tâm cảnh:


CHIẾC LÁ

Ước là chiếc lá
Đong đưa
Mặc trời sáng
Nắng
Chiều mưa
Cũng đành…

Tháng ngày lấy biếc
Làm
Xanh
Lấy sương
Giữ
Nét long lanh
Dâng
Đời.

           Hay những nét phác họa chân dung rất lạc quan của Trương Nam Chi trong Cời lửa có thể trở thành một bài học cần thiết cho những người không dám trút bỏ thân phận nỗi buồn pha lê, trong veo, trắng ngần và dễ vỡ:

U buồn thổn thức
Gọi tên
Người đem xâu chuỗi
Phơi
Trên tro tàn
Mình tôi lóng ngóng
Cời than
Khơi lên đốm lửa
Dập tan muộn phiền.

(Cời lửa)

           Dung dị, mộc mạc nếu không nói là rất đơn giản trong sử dụng ngôn ngữ, vậy mà câu thơ đã nói hết, nói bằng hết, nỗi buồn sâu thẳm của tác giả trong hình ảnh rất đơn độc u uất một người, một mình ngồi cời than. Lan man trong trầm tư liên tưởng hình ảnh, tôi cũng bị rơi vào một không gian hun hút cô độc đến kì lạ. Và cũng chính trong bức tranh tưởng chừng rệu rã ấy lại ẩn chứa bản lĩnh vượt thắng “…khơi lên đốm lửa / dập tan muộn phiền…” của bậc trí giả.

           Tôi không biết tiểu sử, không biết cuộc sống của Trương Nam Chi, nhưng qua tập thơ này, tôi cảm nhận chị phải trải qua nhiều thăng trầm trong đời thực mới nhận thức được cái chân lý bất biến là vô ưu, để cân bằng được nội tâm với khách thể. Nhà thơ cũng đi trước cuộc đời mình một bước, vượt qua được cảm tính thông thường của một nữ nhân, khi xác thực sự hiện hữu chỉ là giai đoạn phù phiếm trong vòng chuỗi sinh diệt như một người đã đắc đạo:


Ơ này!
Nhan sắc gió mây
Có nghe tiếng gọi cỏ cây đang chờ

(Nhan sắc)


           Hay trong Gánh buồn, Trương Nam Chi đã viết:


Gánh buồn ngúng nguẩy rong chơi
Vẩn vơ thiên hạ buông lời quàng xiên…
… Gánh buồn xốc lại xiêm y
Kẻo bụi oan trái lắm khi bám vào…

           Tôi càng đọc, càng thấy thích thú với cung cách thể hiện tâm ý của chị qua vần thơ sáu - tám tưởng chừng như đã quá cũ kĩ sáo mòn. Mỗi vần thơ như một lời độc thoại với nội tâm, với cuộc đời bằng thứ ngôn ngữ trực quan, không màu mè, không bóng lộn như rất nhiều người làm thơ khác. Có lẽ chính sự đơn giản, mộc mạc trong câu chữ, sự cách tân ngắt câu, lật dòng mang hơi hướm của dạng hình “thơ thị giác” đã tạo nên phong cách riêng biệt và thành công trong cuộc chơi gọi hồn cho xác của Nhà thơ Trương Nam Chi.


Huế, tháng 10/2014
Nhà thơ Nguyên Quân
(Nguồn: Tạp Chí Sông Hương)

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
Các bài khác: