Không ai là anh hùng dân tộc nếu không được chính dân tộc tôn vinh. Và sự tôn vinh ấy trở thành thiêng liêng khi được chuyên chở trên sức mạnh của huyền thoại.
Như một người dân đứng xếp hàng trên đường Hoàng Diệu, tôi xin gửi mấy dòng đơn sơ này kính viếng anh linh Đại tướng.
Thật lòng mà nói, người dân có cả một nỗi lòng để thốt ra với Đại tướng trong ngày Quốc táng, nhưng nỗi lòng ấy nghẹn lời ở cổ. Nói được gì chăng, chắc Đại tướng đã nghe rồi và sắp nghe nữa, quá nhiều. Nhưng quá nhiều mà vẫn chưa đủ. Đáng lẽ phải dùng một con tàu mang di hài Đại tướng đi từ Ải Bắc đến Cà Mau để Đại tướng nghe tiếng nói không nói được trong tim mọi người trên mọi con đường của đất nước.
Bởi vì, thưa Đại tướng, Đại tướng là anh hùng của dân tộc. Của cả một dân tộc từ Bắc chí Nam, không phải riêng ai. Và thế nào là anh hùng? Thế nào là anh hùng dân tộc? Anh hùng là người đã hiến cả cuộc đời của mình cho một cái gì cao hơn chính mình.
Với Việt Nam trong thế kỷ 20, cái đó là độc lập. Nhưng như thế vẫn chưa đủ để Đại tướng là anh hùng dân tộc.
Không ai là anh hùng nếu không được nhân dân công nhận. Không ai là anh hùng dân tộc nếu không được chính dân tộc công nhận. Và sự công nhận ấy trở thành thiêng liêng khi được chuyên chở trên sức mạnh của huyền thoại.
Không có huyền thoại thì không có anh hùng. Không có huyền thoại cộng đồng thì không có anh hùng dân tộc. Huyền thoại ấy không phải do một thế lực nào nặn ra. Tự nhiên nó đến qua sự giao cảm thần kỳ giữa một dân tộc với vị anh hùng của họ.
Đại tướng đang đi vào huyền thoại ấy. Đã là huyền thoại thì không nên cắt nghĩa bằng luận lý.
Không nên hỏi: đâu phải chỉ một mình Đại Tướng hiến cả cuộc đời cho độc lập dân tộc? Nhưng huyền thoại là vậy: huyền thoại của Việt Nam muốn rằng vị anh hùng của dân tộc là tướng.
Chẳng phải Đại tướng là cha đẻ của một quân đội chỉ có dăm ba khẩu súng trường lúc khai sinh đó sao? Chẳng phải chỉ gọi "Đại tướng" là ai cũng biết đích danh một người? Cũng đừng nên hỏi: bao nhiêu vua đã chống xâm lăng, đâu phải chỉ tướng? Nhưng huyền thoại là vậy: huyền thoại là lịch sử được cảm xúc hóa, tưởng tượng hóa.
Lịch sử tôn quý vua, nhưng huyền sử sắc phong thần cho tướng. Vua chỉ huy nhưng tướng ra quân. Và trận mạc đã đi vào tưởng tượng của mọi cái đầu từ thời cắp sách trong suốt thế kỷ.
Mở sách giáo khoa của lớp ba ngày xưa, cả mấy thế hệ học trò say mê gì, say mê ai, nếu không phải là sông Như Nguyệt, sóng Bạch Đằng, Ải Chi Lăng, áo bào đẫm mùi thuốc súng của Nguyễn Huệ, Thoát Hoan chui vào ống đồng chạy dài? Hơn thế nữa, cao tột bậc, lịch sử có Trần Nhân Tông, nhưng huyền sử có đức Thánh Trần.
Từ nhỏ, trong tưởng tượng, chiến công là của tướng. Vua thì có minh quân và hôn quân, tướng chỉ có trận mạc hiển hách, tự hào dân tộc. Như con người có xương có thịt, dân tộc cần thương yêu và được thương yêu, cần vỗ về và được vỗ về. Nhất là trong giai đoạn mất nước. Nhất là trong giai đoạn thui chột tự hào.
Tôi đã lặp đi lặp lại quá nhiều hai chữ dân tộc. Là bởi vì huyền sử của dân tộc đang làm nhiệm vụ cảm xúc hóa lịch sử để đưa Đại tướng vào vai trò trưởng tử của Trần Hưng Đạo.
Nhân dân đang sắc phong cho Đại tướng. Bất cứ ở đâu, mọi con mắt đều nhìn về một phương, mọi trái tim cùng đập chung một nhịp.
Trong lịch sử chiến tranh gần đây, nếu lấy một thời điểm để nói chính xác rằng mọi con tim cùng đập một nhịp, thì thời điểm duy nhất ấy là Điện Biên Phủ.
Tôi thuộc thế hệ những anh học trò sống trong vùng ảnh hưởng của người Pháp có bạn bè, thân nhân bị động viên để tham gia chiến trận. Không mấy ai trong các anh ấy nghĩ rằng mình cầm súng để bảo vệ một lý tưởng. Không mấy ai nghĩ rằng mình đang đứng vào phía dân tộc. Họ thầm nghĩ: phía của dân tộc là phía kia. Và phía ấy đang vang vọng gầm trời tiếng pháo Điện Biên.
Kể cả những người đang cầm súng ở bên này chiến tuyến, súng ấy cũng có trái tim để cùng đập một nhịp với nhịp máu tự hào của cả một dân tộc chiến thắng. Điện Biên không có giới tuyến. Không phải là chiến thắng của một phe. Cho nên Điện Biên là Bạch Đằng. Điện Biên là duy nhất trong huyền sử thoát nhục thuộc địa. Giống như Bạch Đằng, một bên là dân tộc, một bên là kẻ thù chung, từ phưong Tậy hoặc từ phương Bắc.
Và Điện Biên, và Bạch Đằng chỉ nói lên một điều: là anh hùng dân tộc vị nào đã cầm thanh gươm mà chính dân tộc trao cho để chém một kẻ thù chung. Anh hùng là người ngồi trên ngựa, giữa trận mạc. Huyền sử của Việt Nam muốn thế. Không cần lý luận. Trái tim cộng đồng tạo ra huyền sử ấy không cần lý luận. Cũng không có giới tuyến. Đại bác Điện Biên không có giới tuyến...
Cao Huy Thuần