Thứ ba, 23/04/2024,


Một bài thơ đang được hiểu khác nhau tại Quảng Bình (01/12/2008) 

 

 

 

      LBT: Đó là bài 'Gửi nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ' của nhà thơ Trần Quang Đạo đã được đăng trên Tạp chí Nhật Lệ số 163, tháng 10-2008.

     Sau khi bài thơ trên được ấn hành, đã có nhiều ý kiến hiểu trái ngược nhau.

     Nhận thấy đây là một điều đáng quan tâm trong đời sống văn học hiện nay, lụcbat.com giới thiệu cùng bạn đọc nguyên văn bài thơ, cùng hai ý kiến trái chiều. (Nguồn: vanvn.net)

 

 

GỬI NHÀ THƠ LÂM THỊ MỸ DẠ

 

Quảng Bình có võ tướng văn nhân
Nếu không có chị chỉ còn một nửa!

Chị vẫn còn giữ nguyên những nét năm nao
cá trên sông Kiến Giang ghen tuông quẫy lên bờ chết hạn
bởi mái tóc như sông

Em đã nghe thao thức những tấm lòng
những viên gạch xếp hàng dài trong đội ngũ
rồi họ dong cờ trắng !

Bởi chị là Quảng Bình
chị nhìn thấy khoảng trời hố bom mà không ai thấy được
mọi người soi càng ngưỡng mộ bao phần.

Bao nhiêu người yêu chị
yêu chất đàn bà yêu sự cả tin
nhưng chị vẫn Quảng Bình mà không ai hiểu hết.

Em một mình hoang dại kiếp sau !
16/9/2007

Trần Quang Đạo

 

 

Từ trái qua: các nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu, Trần Quang Đạo

Điền Ngọc Phách, Trần Nhương và Trần Quang Quý.

 

 _________________________________________________________________

 

         MỘT SỰ TÂNG BỐC KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN

                                        (Trao đổi về một bài thơ đăng trên

                                        Tạp chí Nhật Lệ số tháng 10-2008)
 
        Trên trang 33 Tạp chí Nhật Lệ số tháng 10-2008 có đăng bài thơ 'Gửi nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ'' của tác giả Trần Quang Đạo. Bài thơ mở đầu bằng hai câu ''Quảng Bình có võ tướng văn nhân/ Nếu không có chị chỉ còn một nửa!''. Tôi đọc tiếp 'Bởi chị là Quảng Bình/  Chị nhìn thấy khoảng trời hố bom mà không ai thấy được''. Câu thơ này làm tôi nhớ lại hồi năm 1972, khi ta mở chiến dịch Quảng Trị, địch đã dùng máy bay B52 liên tục rải thảm bom tạ, bom tấn đánh bay mất nhiều đoạn đường Trường Sơn hòng cắt đứt tuyến vận chuyển hàng tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Thời kỳ ấy có khá nhiều văn nghệ sĩ đi phục vụ tiền tuyến, từng chịu những trận B52 đó nhưng nào có thấy mấy tác phẩm tìm được lời đẹp nói về con người tuyệt đẹp như bài ''Khoảng trời, hố bom' của Lâm Thị Mỹ Dạ. Xin trích lại một số câu hay 'Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em/ Mưa đọng một khoảng trời nho nhỏ…'', ''Em nằm dưới đất sâu/ Như khoảng trời đã nằm yên trong đất/ Đêm đêm, tâm hồn em tỏa sáng/ Những vì sao ngời chói lung linh/ Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong/ Đã hóa thành những làn mây trắng?''. Mỹ Dạ vốn dịu dàng thùy mị đã có cái nhìn rất mới về sự hy sinh rất bình dị mà rất đỗi anh hùng của cô thanh niên xung phong rất trẻ làm cho bài thơ có một sức gợi cảm đau thương rất sâu sắc. Nhà thơ lớn Hoài Thanh đã từng nói ''Có thể xem đó là một đài liệt sĩ bằng thơ. Bằng thơ và đẹp như thơ''.
       Vì vậy trong cuộc thi thơ 1972 - 1973 của Tuần báo Văn nghệ, chị là một trong 4 nhà thơ có tác phẩm được tặng thưởng giải nhất: Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu và Hoàng Nhuận Cầm.
       Những áng thơ thời chiến nóng bỏng cứ nguôi dần theo năm tháng dài thời bình. Và cũng đã 35 năm, chị Mỹ Dạ xa mảnh đất đầy hố bom. Nhưng võ tướng, văn nhân Quảng Bình vẫn cứ tăng lên đều đều cả quân hàm và tác phẩm văn thơ. Không hiểu sao tác giả Trần Quang Đạo lại nói vậy?. Xin nói rõ trong 25 năm qua đã có gần 20 chiến binh quê ở Quảng Bình được thăng lên quân hàm trung tướng và thiếu tướng; Quảng Bình cũng không ít văn nhân và nhiều tác phẩm tên tuổi.
       Tác giả Quang Đạo dùng phương pháp so sánh nhưng không định rõ mốc thời gian làm cho độc giả hiểu cách nào cũng được. Chẳng hạn Quảng Bình có ''bát danh hương'' nổi tiếng về khoa bảng thời phong kiến gồm 44 vị đỗ đại khoa và 270 vị đỗ cử nhân. Thời ấy chị Dạ chưa sinh. Và từ sau ngày thống nhất nước nhà, chị không sống ở Quảng Bình nữa nhưng chưa phát hiện được võ tướng, văn nhân nào xuống cấp cả về số lượng và chất lượng. Ban đọc dễ dàng thông cảm một bài thơ không thể viết rạch ròi như báo cáo thống kê. Nhưng cũng không thể lợi dụng chữ nghĩa thơ hàm súc, thâm thúy để tâng bốc thành thần tượng tiêu biểu cho một vùng đất: Chị là Quảng Bình (làm sao chị là tượng trưng cho một tỉnh). Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đọc đến câu thơ tâng bốc mình quá đáng hẳn phải giật mình và buồn phiền bởi 'thương nhau kiểu ấy bằng mười hại nhau''. Bài thơ 'Khoảng trời, hố bom'' đã thành tác phẩm văn học có giá trị cao trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước của cả nước, người đọc không cần biết Lâm Thị Mỹ Dạ quê ở đâu.
      Cũng cần nhấn mạnh sáng tạo ra tác phẩm văn học là quyền tự do sáng tác của nhà văn, nhưng tác phẩm ấy có phát hành đến rộng rãi bạn đọc lại phải qua nhiều khâu quản lý xuất bản của cơ quan Nhà nước. Bài thơ ''Gửi nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ'' của Trần Quang Đạo sáng tác từ tháng 9-2007 có những quan điểm lệch lạc xúc phạm đến võ tướng, văn nhân Quảng Bình, thế mà Tạp chí Nhật Lệ vẫn cho đăng trên tạp chí số 10-2008, gây nên sự bàn luận không hay trước thềm Đại hội văn học nghệ thuật Quảng Bình lần thứ IX (2008-2013).

Việt Thành

 

 

 

Từ trái qua, các nhà thơ: Bằng Việt, Trần Quang Đạo,

Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Đình Toán.

_______________________________________________________________________

 

VỀ BÀI THƠ CỦA TRẦN QUANG ĐẠO

(Trao đổi cùng Việt Thành về bài viết trên báo Quảng Bình,

số 225 (5972) ra ngày 10-11-2008)

 

        Thực tình tôi không có ý định viết bài này. Bởi khi đọc bài ' Một sự tâng bốc không thể chấp nhận '(Trao đổi về một bài thơ đăng trên tạp chí Nhật lệ số tháng 10-2008) của ông Việt thành, tự thấy không bàn cãi làm gì khi người ta thẩm thơ, hiểu thơ theo lối ''thích gì nói ấy, ưa gì nói vậy', không theo một chuẩn mực nào cả, mà lý sự kiểu đó biết đâu mình thành hiệp sĩ Đôngkisôt. Nhưng tôi nhận quá nhiều cú điện thoại chất vấn rằng tại sao anh im lặng khi cần anh lên tiếng? Cú điện thoại gần nhất trưa nay của nhà văn Nguyễn Quang Lập buộc tôi vào cái thế chẳng đặng đừng.            
        'Gửi nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ' của Trần Quang Đạo (mà ông Việt Thành đưa ra mổ xẻ), là một bài thơ khá hay, giọng điệu trữ tình, dễ đọc dễ cảm, cũng một phong cách đã thể hiện qua nhiều tập thơ. Có thể nói đây là bài thơ tình, hàm chứa ý nghĩa sâu kín mà nhà thơ Trần Quang Đạo muốn gửi gắm tình cảm đối với quê hương.

        Chị vẫn còn giữ nguyên những nét năm nao
        cá trên sông Kiến Giang quẫy lên bờ chết hạn
        bởi mái tóc như sông

        Em đã nghe thao thức những tấm lòng
        những viên gạch xếp hàng dài trong đội ngũ
        rồi họ dong cờ trắng!

Cái tình lãng đãng trong thơ làm người ta liên tưởng đến Hoàng Cầm. Sự thách đố lãng mạn của chị trong Lá diêu bông của Hoàng Cầm như món quà hư ảo của tình yêu mà suốt đời em không với tới. Còn Trần Quang Đạo đã từng nghe bao nhiêu chàng trai xếp hàng dài để được yêu chị, cuối cùng đều dong cờ trắng. Tất cả không thành, một sự thua cuộc trong tình yêu. Hoàng Cầm ngậm ngùi: Từ thuở ấy / Em cầm chiếc Lá / Đi đầu non cuối bể / Gió quê vi vút gọi / Diêu bông hời…! / …ới Diêu bông!...Trần Quang Đạo tự an ủi: Em một mình hoang dại kiếp sau! Có gì huyền bí ở hai người chị đã làm cho tâm hồn hai thi sĩ rung lên, quằn quại đên thế? Ở Hoàng Cầm là sự chờ đợi mong mỏi, đắm say đến cuồng dại, chỉ vì từ nay ta gọi là chồng. Một khát vọng vô bờ bến của tình yêu. Trần Quang Đạo không hoàn toàn như thế. Trần Quang Đạo nhìn thấy nơi nhân vật trữ tình của mình sự thông minh sâu sắc, gắn với thời cuộc chị nhìn thấy khoảng trời hố bom mà không ai thấy được…/… chị vẫn Quảng Bình mà không ai hiểu hết. Chị như hiện thân quê hương dịu dàng mà quả cảm, lam lũ gian truân mà duyên dáng. Tình yêu chị trong thơ Trần Quang Đạo khác với Hoàng Cầm ở chỗ này đây. Chị không chỉ là chị để em tìm tình yêu, mà chị còn là nhà thơ, biểu trưng cho vẻ đẹp, cho sức sống tinh thần của thời chiến tranh ác liệt trên đất  Quảng Bình. Trong con mắt đặc trưng, khái quát chị chính là văn nhân một vùng đất văn võ song toàn mà người xưa thường nhắc tới mỗi khi nói đến tính toàn diện của một nhân vật, một triều chính, cao rộng hơn một quốc gia. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã lý giải ý nghĩa hai chữ văn và võ ''…văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị, ngoại giao, '' mở nền thái bình muôn thuở, rửa nỗi thẹn nghìn thu '' (Bình Ngô đại cáo) ; võ là quân sự…; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm dao…'' (1).

Tư tưởng bài thơ đã bộc lộ trong hai câu thơ đầu:

Quảng Bình có võ tướng văn nhân
Nếu không có chị chỉ còn một nửa!

Nếu không có chị, hình ảnh biểu trưng về văn hóa, thì cái thế đó chỉ còn một nửa. Võ tướng văn nhân hai đối tượng, hai sức mạnh tạo cho gốc rễ, thế nước cân đối vững vàng. Chị là hiện thân cụ thể của truyền thống văn hóa phong phú nơi quê hương yêu dấu. Một thi pháp ẩn dụ mở đầu để làm nền cho tư tưởng bài thơ.

Vậy đó, tình yêu trong thơ Trần Quang Đạo không chỉ là tình yêu thuần túy mà nhân rộng, thi vị hóa lên như một thần tượng. Chỉ có tình yêu quê hương tha thiết mới có sự rung động tinh tế đến thế.

Trở lại lối cảm và nghĩ của ông Việt Thành, tôi thử học cách suy diễn, tùy hứng mà không tài nào hiểu ông đang nói gì. Ông viết: '' Chị là Quảng Bình ( làm sao chị là tượng trưng cho một tỉnh ). Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đọc đến câu thơ tâng bốc mình quá đáng hẳn phải giật mình và buồn phiền bởi '' thương nhau kiểu ấy bằng mười hại nhau ''. Sao một con người lại không thể tượng trưng cho miền đất mình đang sống? Tôi còn nhớ câu thơ thời chống Mỹ nhìn một người là nhìn ra cả nước. Nhà thơ Việt Phương cũng đã viết '' Hà Nội của ta là cô gái hai mươi cuối một mùa hoa điệp / Lên đường xa còn bâng khuâng chưa biết hẹn gì ai...(2) đó sao? Các nhà phê bình còn xem nhà thơ như vũ trụ của tình yêu, sự sống, tư tưởng. Mỗi nhà thơ là một thế giới huyền bí. Bởi lẽ trong đời sống tinh thần mỗi người là một thế giới riêng biệt. Éptusenko từng viết : Mỗi người mất đi là cả một thế giới mất đi. Ví chị là Quảng Bình cũng như Hà Nội là cô gái hai mươi.

Tôi cũng không hiểu nổi vì sao ông luận ' Nhưng võ tướng, văn nhân Quảng Bình cứ tăng lên đều đều cả quân hàm và tác phẩm văn thơ…''. Rồi ông lại liệt kê '' trong 25 năm qua đã có gần 20 chiến binh quê ở Quảng Bình được thăng lên quân hàm trung tướng và thiếu tướng…'', rồi thì '' thời phong kiến gồm 44 vị đỗ đại khoa và 270 vị đỗ cử nhân'' và tiếp tục huyên thuyên ''chưa phát hiện được võ tướng văn nhân nào xuống cấp cả số lượng và chất lượng'', chẳng biết để làm gì hở ông, nó không mảy may ăn nhập với bài thơ của Trần Quang Đạo mà ông gán cho: 'có những quan điểm lệch lạc xúc phạm đến võ tướng văn nhân Quảng Bình, thế mà tạp chí Nhật Lệ vẫn cho đăng trên tạp chí số 10-2008, gây nên sự bàn luận không hay trước thềm Đại hội văn học nghệ thuật Quảng Bình lần thứ IX (2008-2013 .

Rõ ràng suy nghĩ tùy tiện, không chuẩn mực, bụng dạ thiếu trong trẻo, ông đã quy kết chụp mũ theo kiểu thời xa xưa, muốn đè đầu cưỡi cổ ai là được đó. Bây giờ, nói cho ông hay, không được đâu. Ông muốn cãi với người ta thôi cũng phải có học, có đọc. Nhà phê bình văn học nổi tiếng Hoài Thanh, nếu sống lại, ông sẽ ăn nói làm sao khi gọi là nhà thơ lớn? Không biết nhà thơ Trần Quang Đạo đã tâng bốc nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ theo kiểu gì, như ông nghĩ, còn ông thì thôi khỏi phải bàn.
 

Chiều thứ bảy, 15/11/2008

Hoàng Vũ Thuật


_____
(1) Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc,
báo Nhân Dân số 3099, ngày 19-9-1962.
(2) Trong bài thơ : Một mùa thu - không biết sớm hay chiều.  

 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
Các bài khác: