Hai ngày 08 và 09/10/2011, Hội Nhà Văn Việt Nam tổ chức Hội thảo “Thơ hiện đại Việt Nam nhìn từ miền Trung”, tại Sầm Sơn, Thanh Hóa. Hàng trăm nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình cả nước sẽ dự Hội thảo, đồng thời vào 20h tối nay (08/10) sẽ có đêm giao lưu, đọc thơ với SV tại Đại học Hồng Đức. Nhân dịp này, Lucbat.com trân trọng giới thiệu bài tham luận của TS Hỏa Diệu Thúy với bạn đọc.
Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, Thanh Hóa
Nhà bác học Phan Huy Chú trong bộ bách khoa thư Lịch triều hiến chương loại chí đã viết về vùng đất xứ Thanh: “Thanh Hóa mạch núi cao vót, sông lớn lượn quanh, biển ở phía Đông... núi sông rất đẹp, là một chỗ có cảnh đẹp ở nơi xung yếu. Vẻ non sông tươi tốt chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều văn nho... Bởi đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường, vượng khí chung đúc, xứng đáng đứng đầu cả nước”.
Danh sĩ Nguyễn Thượng Hiền trong bài hát nói Bản tỉnh phong cảnh ca cũng dành cho xứ Thanh những dòng trác tuyệt:
Nhân trung cảnh, cảnh trung nhân
Nhân với cảnh tứ thời giai sinh sắc
Tam thập lục động thừa tuyên đệ nhất
Thanh Hoa nhân vật tối giai.
Vùng đất ấy nếu có trở thành một miền thơ, một xứ thơ kể cũng không mấy ngạc nhiên. Quả là tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho mảnh đất này những điều kiện để trở thành xứ sở thi ca với cả hai nghĩa: nơi sinh thành, hội tụ các thi nhân, cũng là nơi khơi nguồn cảm hứng thi ca.
1. Xứ sở của thi nhân...
Thích làm thơ và đọc thơ, vận thơ, nếu coi đây là phẩm chất chung của người Việt, thì có lẽ xứ Thanh là một trong những vùng đất có “tố chất” thi ca nổi bật. Vùng đất được coi là “Việt Nam thu nhỏ” này nơi đâu cũng có dấu ấn của nguồn mạch thi ca. Thì đây, cả một vùng miền tây rộng lớn của xứ Thanh chính là quê hương của Mo, của Xường, của những truyện thơ dài nổi tiếng: Nàng Nga – Hai Mối, Sống chụ xôn xao... và những người dân lam lũ chính là tác giả của những “bài thơ cổ” quý hiếm đó. Đây nữa, trên đất nước Việt Nam có rất nhiều kênh rạch này, song chỉ có hai con sông của miền Trung mới sinh ra những điệu hò nổi tiếng. Nếu sông Hương làm cất lên những làn điệu da diết thì sông Mã lại sinh ra những làn điệu hò bộc trực, khỏe khoắn như tính cách, tâm hồn con người xứ này. Khi nhà thơ - nghệ sỹ dân gian cất lên những điệu hò, cũng là lúc trái tim cất tiếng nói thi ca:
Vắng cơm một bữa chẳng sao
Vắng em một bữa lao đao cả ngày
Vắng em chỉ một phiên đò
Trầu ăn chẳng có chuyện đò thì không
(Hò Sông Mã)
Dễ hiểu vì sao mạch đấy này không chỉ vượng “tướng” mà còn giàu “thi nhân”. Hơn thế, hai phẩm chất này hội tụ, sinh ra những hào kiệt từng làm rạng rỡ cho quê hương, đất nước: Đinh Củng Viên, Hồ Quý Ly, Nguyễn Mộng Tuân, Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Lê Văn Hưu, Lương Đắc Bằng, Lê Khôi, Lê Quát, Lê Cảnh Tuân, Trịnh Sâm, Trịnh Tráng, Nhữ Bá Sỹ, Tống Duy Tân, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Trần Xuân Soạn v.v... Những tên tuổi lừng lẫy ấy, dù là đấng quân vương hay bậc sĩ phu, nho sĩ, họ đều có chung những phẩm chất: khí phách và tài hoa.
Đây là bài ngẫu hứng của Thái tổ Lê Lợi, nhân một lần cầm quân đánh dẹp trở về. Tâm hồn thi nhân từ trong cốt cách dũng tướng cất lên thành những vần thơ hào sảng và bay bổng lạ thường:
Kỳ khu hiểm lộ bất từ nan,
Lão ngã do tồn thiết thạch can.
Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ,
Tráng tâm di tận vạn trùng san.
Biên phỏng vị hảo trù phương lược,
Xã tắc ưng tu kế cửu an,
Hư đạo nguy than tam bách khúc,
Như kim chỉ tác thuận lưu khan.
(Đi đánh Điêu Cát Hãn trở về qua đường đê Long Thủy)
(Gian nan nào ngại cách non sông,
Già cả mà ta vẫn vững lòng.
Nghĩa khí dẹp tan mù mấy lớp,
Tráng tâm san phẳng núi muôn trùng.
Phòng ngừa bờ cõi cần ra sức,
Giữ vững cơ đồ phải gắng công.
Thác, suối ba trăm dù hiểm trở,
Nay xem nào khác nước xuôi dòng.)
Phẩm chất ấy truyền lại cho những thế hệ sau và nền thơ Việt Nam tự hào có thêm một bậc minh quân thi sĩ:
Thúy vi hựu địa khả bồi hồi
Vọng viễn đăng cao vũ trụ khôi
Khước nhạ cáo thành phong Ngọc Kiểm
Thù phi thất lộ nhập Thiên Thai
Nhà văn mã địa vô nhân tảo
Hư thất lăng không trấn nhật khai
Yểu điệu giản cùng lâm tận ngoại
Thời yêu hoàng ốc thủy hoa lai.
(Đề Long Quang động – Lê Thánh Tông)
(Sườn núi xanh xanh đẹp quá chừng
Lên cao vũ trụ rộng không cùng
Cáo thành cứ ngỡ lên non Kiểm
Lạc lối đường như tới chốn Bồng
Không quét mây vương đầy mặt đất
Vút trời động chắn giữa tầng không
Phong quang suốt tận ven rừng suối
Thi thoảng mời vua đến ngắm trông.)
(Hải Anh dịch)
Đến giai đoạn hiện đại, lực lượng thi nhân của xứ Thanh ở thời điểm nào cũng có những gương mặt tiêu biểu. Trong công cuộc hiện đại hóa thơ Việt Nam diễn ra vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, xứ Thanh tham gia với hai gương mặt nữ (quả là thú vị!): Vân Đài và T.T.KH. Nữ sĩ Vân Đài sinh ở Hà Nội nhưng gốc Thanh (người làng Hà Mô, huyện Nông Cống). Bà đã sớm có thơ đăng ở các báo Phụ nữ tân văn, Phong hóa, Ngày nay. Chọn giới thiệu Vân Đài bởi tác giả Thi nhân Việt Nam nhận thấy Vân Đài là “một người thơ” với “lời thơ bao giờ cũng nhẹ nhàng, êm ái. Ít khi tiếng Nam có vị ngọt ngào như thế. Ấy vì Vân Đài ưa nói những gì rất mong manh, rất bình yên”.
Người thứ hai từng gây “náo nhiệt” thi đàn những năm cuối của thập kỷ 30 chính là bút danh T.T.KH. Hồi ấy, Tiểu thuyết thứ bảy đã nhận được hai bài thơ cùng “một nét chữ run run”. Đó là “Bài thơ thứ nhất” và “Hai sắc hoa ti gôn”. Tác giả của hai thi phẩm không ghi địa chỉ, nhưng lời kể của nhân vật trữ tình đã hé lộ, đó là người ở “vườn Thanh”:
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành.
(Bài thơ thứ nhất)
Cách mạng tháng Tám, rồi tiếp đến là cuộc kháng chiến chống Pháp, thời đại sử thi với những sự kiện lớn dường như “hợp” với tố chất xứ Thanh, đồng điệu với khí chất xứ Thanh, nên khi thi đàn của nền văn học mới cách mạng đang thưa thớt bởi các “chiến tướng” của thơ mới chưa kịp nhập cuộc bỗng xuất hiện những cái tên gắn với những thi phẩm chói sáng: Trần Mai Ninh với Tình sống núi, Nhớ máu; Hữu Loan với Đèo cả, Màu tím hoa sim, Yên Mô, Hoa lúa, Những làng đi qua; Hồng Nguyên với Nhớ, Thôi Hữu với Lên Cấm Sơn... Qua sàng lọc của thời gian, đến bây giờ, những thi phẩm ấy vẫn là những tác phẩm tiêu biểu của nền thơ kháng chiến.
Trong lớp thế hệ thơ thời chống Mỹ, xứ Thanh góp những cái tên: Nguyễn Duy, Cẩm Giang, Lê Đình Cánh, Lê Văn Vọng, Lữ Giang, Nguyễn Bao, Xuân Sách, Trần Vũ Mai, Mã Giang Lân, Trịnh Thanh Sơn, Anh Chi, Mai Văn Hai, v.v...
Tham gia vào diễn đàn thơ thời kỳ đất nước đổi mới có cả những người lính từ chiến trường ra như: Mai Ngọc Thanh, Lã Hoan, Huy Trụ, Nguyễn Ngọc Quế, Trịnh Anh Đạt, v.v... và những cây bút do đam mê thơ, nặng lòng với thơ cho dù có lúc nhà thơ lâm vào tình cảnh: Thơ ơi ta bảo thơ này/ Để ta đi cấy đi cày nuôi em (Nguyễn Duy), như: Văn Đắc, Mạnh Lê, Đào Phụng, Mai Ngọc Thanh, Vũ Thị Khương, Lê Thị Kim, Phạm Khang, Nguyễn Minh Khiêm v.v... Và gần đây là những cái tên mới: Nguyễn Anh Nông, Lâm Bằng, Phạm Văn Dũng, Trương Thị Mầu, Bùi Nhị Lê v.v...
Thế hệ nối tiếp thế hệ, mạch đất xứ Thanh đã dâng hiến và góp phần làm cho thảm rừng thi ca dân tộc thêm phong phú, tốt tươi và giàu bản sắc.
TS Hỏa Diệu Thúy và nhà thơ Văn Công Hùng tại "Hội thảo thơ Việt Nam hiện đại -
nhìn từ miền trung" tại Sầm Sơn, Thanh Hóa ngày 8/10/2011. Ảnh: Lãng Ma (Lucbat.com)
2. Bản sắc xứ Thanh trong thơ
Nếu không tìm tới điều này thì khó thuyết phục rằng nơi đây là miền thơ, là xứ thơ. Bởi đã một “xứ”, thường phải gắn liền với bản sắc, tạo nên bản sắc. Vậy bản sắc “miền thơ xứ Thanh ” là gì? Nhận ra được điều này quả không dễ, tuy nhiên, người viết vốn có cội rễ xứ Thanh nên cứ thử đưa ra những phán đoán, coi như để học hỏi và tìm sự tri âm vậy.
Những“ám ảnh về dải đất miền trung”. Có thể coi đây là biểu hiện đầu tiên của bản sắc xứ Thanh trong thơ. Ấn tượng này không chỉ bộc lộ trong thơ xứ Thanh mà cũng sẽ có trong thơ của các “xứ” khác cùng dải đất giống như chiếc đòn gánh gánh hai đầu đất nước này. Dễ hiểu thôi, rẻo đất miền Trung, tự nó đã là một ấn tượng mạnh khiến cho ai từ trong cái nôi ấy đi ra đều thấm thía:
- Sông Chu chớp bể mưa nguồn
Trời quê bão giật mây cuồn cuộn mây
Trăm năm cây lúa vẫn gầy...
(Lê Đình Cánh)
- Đi dọc miền Trung
Mới thấy dải đất này không thể nào hẹp hơn được nữa
Tôi đi mà nghe lòng nao nao
Thương mảnh đất miền Trung mảnh mai, gầy guộc
(Phạm Đình Ân)
- Người miền Trung đi đâu cũng nhớ
Quê nhà cát trắng núi xa xanh
Có lúc mồi ngon, ly rượu mạnh
Vẫn thèm ăn một chén cơm cà
(Trần Hoàng Vy)
- Lâu lắm rồi chẳng về lại miền Trung
Mảnh đất cằn, cuốc lên toàn sỏi đá
Những cơn gió Lào thổi khô tất cả
Ngoảnh bên nào cũng thấy khô rang
(Võ Mai Anh Kiệt)
Thơ thời trung đại ít nói đến điều này mà phải đến thời hiện đại khi cái bản ngã có chỗ đứng, những cảm xúc riêng tư có dịp bộc lộ. Người miền Trung khi đi ra có dịp nhìn lại, mới thấy thương quê hương và tự thương mình. Có lẽ chỉ người miền Trung mới có tình cảm gắn bó đặc biệt với quê hương đến vậy. Xứ Thanh nói riêng, người miền Trung nói chung, khi nói chuyện mình thường “gói” cả quê hương vào đó. Trong mỗi người xứ Thanh luôn có hồn cốt “miền Trung”:
- Thiên tai xô vẹt đất người
Dòng sông co lại. Môi cười rộp lên
(Đào Phụng)
- Con dấu chìm chạm trổ tận trong xương
Thời thơ ấu không thể nào đánh đổi
Trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội
Có một miền quê trong đi đứng nói cười
(Tuổi thơ - Nguyễn Duy)
Cái miền quê “in dấu chìm” vào “tận trong xương” ấy của thơ Nguyễn Duy là làng Quảng, là Bố Vệ, là xứ Thanh:
Ai qua Thanh Hóa về Quảng Xá
Men rượu là hương vị của làng tôi
Nhắc Cầu Bố chắc nhiều người còn nhớ
Đình nhà Lê rêu phủ đã bao đời.
tác giả nhận thấy trong cha mình có “dân làng tôi”, và “xứ Thanh”:
Cha tôi đó...dân làng tôi vậy đó
Xả hết mình khi nước gặp tai ương
Rồi thanh thản trở về với ruộng
Sống lặng yên như cây cỏ sau vườn.
(Cầu Bố- Nguyễn Duy)
Bám trụ cùng xứ Thanh, Huy Trụ có lẽ là nhà thơ có nhiều dịp “suy ngẫm” về xứ Thanh nhiều hơn cả. Thi sỹ cảm nhận quê mình là “vùng đất bão”, tự hào biết mấy và cũng thương biết mấy:
Quê hương tôi
Một vùng đất lắm đền đài vua chúa
Gió trở mặt thành cơn bão dữ
Sông cũng thành sông ngựa
Chảy ngang tàng qua bãi mía nương dâu
(Vùng đất bão)
Thi sỹ còn nhận thấy biểu tượng cho “phẩm chất Thanh” ở dòng sông “ngang tàng” mà cũng trữ tình vời vợi:
Riêng một điều em nhận ở đất Thanh
Cái giàu có ẩn trong từng con sóng
Nên dòng sông trước khi ra biển rộng
Hắt lên tay người bão lũ với phù sa
(Sông Mã – Huy Trụ)
Dường như không hẹn mà gặp, các nhà thơ miền Trung, trong đó có xứ Thanh đều có chung cảm nhận, miền Trung giống “mẹ”, giống “bà” từ dáng hình đến phẩm chất. Và các thi sỹ khi làm thơ về mẹ, về bà của mình mà người đọc thì cảm nhận thấy cả miền Trung:
- Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí tay bầu
Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa- Nguyễn Duy)
- Áo nâu còn đẫm mưa phùn
Còn hoai vị cỏ sục bùn lúa non
(Mẹ ra Hà Nội – Lê Đình Cánh)
- Những ngón tay của mẹ như những củ nghệ,
củ dong mọc xuyên qua tổ kiến lửa,
chai xạm, sần sùi, vàng như rễ có.
Nắng mưa không còn chỗ nào thấm sâu hơn.
Những vết sẹo không còn chỗ để dày thêm được nữa.
(Những ngón tay của mẹ - Nguyễn Minh Khiêm)
- Lành nhường con, ấm dụm chồng
Áo dăm mụn vá...nỗi lòng đâu yên
(Mẹ - Trịnh Anh Đạt)
- Trong giấc mơ tôi ẩn hiện bóng Bà
Cắp rổ khoai dọc bờ sông vắng
Bước chầm chậm, thời gian trĩu nặng
Đã làm cong lưng Bà!
(Bà tôi – Trịnh Thanh Sơn)
- Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
Bà mò cua bắt tép ở Đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.
(Đò Lèn – Nguyễn Duy)
v.v...
Biểu hiện thứ hai cho bản sắc xứ Thanh trong thơ có lẽ là nét “rắn rỏi, bộc trực”: Nếu thử xếp thơ của các cây bút xứ Thanh lại với nhau, người đọc sẽ nhận ra thơ họ có điểm chung thú vị: cứng cỏi, gai góc, bộc trực, “vuông chành chạnh”. Liệu, đó có phải là “tính cách Thanh”, phẩm chất đặc trưng của người xứ Thanh chăng? Không biết có phải những “đỉnh núi cao vót”, những dòng sông lắm thác ghềnh, gió Lào cát trắng, biển một bên và rừng núi một bên đã tạo ra sự rắn rỏi, lắm khi đến quyết liệt của “tố chất” người xứ Thanh: Yêu thích nói đùa ghét ưa nói thật/ răng, rứa, mô, tê, cũng vào dân ca (Dô tả dô tà). Bên trong tính cách đó nhất định sẽ là một trái tim nồng nhiệt. Trái tim ấy luôn có xu hướng đạt đến ngưỡng tuyệt đối của tình cảm. Chỉ có ở tính cách “Thanh” mới có nỗi buồn ghê gớm như thế này:
Một cộng với một thành đôi
Anh cộng cô đơn thành biển
Nắng tắt mà người không đến
Anh ngồi rót biển vào chai
(Biển vắng – Trịnh Thanh Sơn)
Và một tình yêu lạ thường như thế này:
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo.
(Màu tím hoa sim – Hữu Loan)
Rạch ròi, dứt khoát, tin mình và tin người, sẵn sàng xả thân, sẵn sàng hy sinh vì tình yêu, vì niềm tin, đó là phẩm chất xứ Thanh, là người Thanh. Xin cúi đầu trước những bà mẹ Việt Nam anh hùng, song cũng xin giành sự ngưỡng mộ cho những bà mẹ miền Trung – xứ Thanh trong hai cuộc kháng chiến:
Bao nhiêu bà mẹ chờ chồng
Núi
Không đủ đá
Để
Trồng vọng phu
(Mẹ miền Trung – Trịnh Anh Đạt)
Rạch ròi và quyết liệt trong mọi chuyện, kể cả chuyện làm thơ:
Thơ là rượu của thế gian
Phải đâu nước lọc rót tràn mời nhau
(Gửi bạn làm thơ – Huy Trụ)
Tính cách rắn rỏi của người xứ Thanh tạo nên sự xui khiến: các nhà thơ xứ Thanh thích lối thơ bậc thang và “thơ – văn xuôi”. Ở lối thơ này, các cây bút xứ Thanh sử dụng thành công hơn cả. Đó là trường hợp của Trần Mai Ninh với Nhớ máu; Hữu Loan với Đèo cả, Hoa lúa; Hồng Nguyên với Nhớ; Nguyễn Duy với Tre Việt Nam, Đánh thức tiềm lực v.v...
Sự rắn rỏi rất dễ đưa thơ gần với “duy lý”, dù trữ tình mấy đi chăng nữa vẫn có cốt lõi duy lý: hay suy tư, triết lý, thích khái quát, thích đưa những vấn đề chính trị, xã hội vào thơ. Thử lắng lại một lần nữa bài Màu tím hoa sim của Hữu Loan, một bài thơ được coi là trữ tình bậc nhất của thơ hiện đại Việt Nam bởi chiều sâu nhân bản mà bài thơ đề cập tới: nỗi đau của tình yêu và khát vọng hạnh phúc:
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
lấy chồng thời chiến chinh
mấy người đi trở lại
Nhỡ may mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng khác với nỗi đau và khát khao hạnh phúc trong bài Khóc Thị Bàng Phi của vua Tự Đức, nỗi đau và khát vọng của Màu tím hoa sim được đặt trong lòng một cuộc chiến tranh. Vì vậy, tuy không là hệ quả trực tiếp của hoàn cảnh xã hội, song, “dư chấn” của hoàn cảnh xã hội vẫn dội vào khiến cho bài thơ một thời phải “chịu trách nhiệm” liên đới do không phù hợp với tinh thần và yêu cầu của cách mạng lúc bấy giờ.
Biểu hiện thứ ba, thích quảng bá “đặc sản”xứ Thanh: Quảng bá quê hương, đó không chỉ là điểm riêng của các cây bút xứ Thanh. Nhưng với người xứ Thanh, nhu cầu này dường như rất mãnh liệt. Thêm nữa, không chỉ quảng bá những nét đẹp mà còn quảng bá cả những thứ bị cho “kém cạnh” hơn người. Tôi cho rằng, đó là bản lĩnh của tính cách “Thanh”. Càng thương quê, thương mình lại càng muốn khẳng định những gì chỉ riêng mình có, những cái riêng ấy không hẳn có ý nghĩa với người khác, nơi khác nhưng với đất mình, quê mình thì đó là máu thịt, là nguồn mạch, là tuổi thơ, là kỷ niệm v.v... nuôi mình không lớn, trưởng thành. “Đặc sản” xứ Thanh hữu hình và vô hình thì nhiều vô kể, nhưng các nhà thơ thời hiện đại lại thú vị nhất với những điều này:
Dô tả dô tà, sông Mã quê ta
Ngày nắng ngày mưa xanh bờ rau má
Múa thì đội đền, hát như trống vỗ
Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng
(Dô tả dô tà- Mạnh Lê)
Nếu xứ Thanh định chọn một thứ cây làm biểu tượng thì đồ rằng gần như một trăm phần trăm người xứ Thanh sẽ bỏ phiếu cho cây “rau má”(!). Xứ Thanh có lẽ là nơi phát hiện ra giá trị của thứ rau đồng quê này nên người xứ Thanh truyền dạy cho con cháu: “Đói thì ăn rau má/ Chớ ăn quấy quá mà chết”. Từ thành ngữ xưa đến thành ngữ thời hiện đại: “Ăn rau má, phá đường tàu”, xứ Thanh bỗng trở thành quê hương của rau má. Người xứ Thanh một ngày nào đó cũng nhận thấy, ừ nhỉ, cây rau má quả là gần gũi với mình, và không ngần ngại xác nhận: dân Thanh Hóa là dân rau má. Chẳng ai bảo ai, lần lượt đưa rau má vào thơ: Ngược dòng rau má tìm tôi/ Xứ Thanh thương cảnh núi Nhồi vọng phu (Người về Bảo Lộc – Lê Đình Cánh). Văn Đắc cũng mau mắn xác nhận: Rau má là tôi, là anh/ Cứ xanh mắt lá hiền lành là ta (Tôi người Thanh Hóa). Huy Trụ thì “luận” về rau má: Thân mềm lá mỏng như không/ Cây rau ấy mọc lẫn cùng cỏ hoang/ Nào ai chăm chút sớm hôm/ Tự mình sống, tự mình vươn giữa đời... và ý nghĩa của cây: Khi thất bát, lúc nhỡ nhàng/ Người bới đất, ngỡ tìm vàng trong cây. Rất yêu thương và trân trọng, nhà thơ tha thiết khẳng định: Ơi cây rau má đất này/ Nói điều chi với tháng ngày mà xanh (Cây rau ấy). Trịnh Anh Đạt thì gọi hẳn “cây rau má – “sâm” của người xứ Thanh” và thú nhận: Vị riêng rau má, em ơi/ Vẫn còn ngai ngái trong người xứ Thanh. Suy ngẫm này đâu chỉ dành riêng cho người xứ Thanh, nhưng có lẽ người xứ Thanh thì thấm thía nhất:
Bao giờ em về quê anh
Mà xem dấu vết kinh thành xa xưa
Vĩ nhân và các đời vua
Cũng từ rau má, ốc cua nên người
(Rau má)
Hình như, các cây bút xứ Thanh ngày càng có xu hướng khẳng định bản sắc quê hương. Nói đúng hơn, cha ông đã tạo ra nền móng văn hóa vững chãi và thế hệ cháu con tự hào về điều đó nên muốn đúc kết, muốn xưng tụng như một sự biết ơn. Mỗi người một cách, những cây bút ấy, họ đã tạo nên một “xứ thơ”, một miền thơ xứ Thanh.
Miền thơ ấy tạo ra dòng chảy thi ca giàu bản sắc. Thơ hay phải giàu bản sắc. Thơ xứ Thanh đã và đang hòa vào dòng sông thi ca dân tộc, góp phần làm nên sự đa dạng, phong phú của thơ ca Việt Nam, của bản sắc văn hóa Việt Nam.
Bản sắc xứ Thanh đã tạo nên một nguồn mạch thơ giàu sắc điệu và ngược lại, thể loại mẫn cảm này cũng đã góp phần lưu giữ và tỏa sáng bản sắc xứ Thanh.
Xứ Thanh, tháng 9 năm 2011
TS HỎA DIỆU THÚY
(Trường Đại học Hồng Đức Thanh Hóa)
Xem thêm các tham luận tại “Hội thảo thơ Việt Nam hiện đại nhìn từ miền Trung”
Do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ngày 8, 9/10/2011 tại Sầm Sơn, Thanh Hóa: