Bài viết này nằm trong khuôn khổ ghi nhận về các thể thơ căn bản Việt Nam mà các bạn đã từng bắt gặp trên các tạp chí hoặc trong các thi tập, với ước mong giúp các bạn trẻ sính thơ, muốn làm thơ, và muốn trở thành 'thi sĩ' nắm vững luật thơ. Người viết cố gắng viết thật ngắn gọn và trong sáng để các bạn dễ dàng thông suốt. Kèm theo mỗi thể thơ là những câu thơ, đoạn thơ hoặc bài thơ dẫn chứng làm kiểu mẫu.
Người Việt Nam rất sính thơ. Có người còn mạnh dạn cho rằng mỗi người Việt Nam là một thi sĩ. Ðiều này không hẳn là đúng, nhưng câu ví đó rất hợp tình hợp lý vì ai ai cũng có thể 'nói thơ' được, bất luận người ấy có trình độ học vấn cao thấp như thế nào. Còn muốn trở thành 'thi sĩ' thì người ấy phải có một trình độ học vấn tối thiểu, kèm theo sự hiểu biết về cấu trúc kỹ thuật của mỗi thể thơ. Nếu người làm thơ mà không nắm vững cấu trúc kỹ thuật của luật thơ thì bài thơ đó bị hỏng. Có nhiều người làm thơ mà không nắm vững luật thơ cho nên không thể được gọi là 'thi sĩ' được, mặc dù người ấy đã từng làm khá nhiều thơ, hoặc in khá nhiều thi tập.
Người viết sẽ lần lượt giới thiệu đến các bạn các thể thơ thông thường như: Thể Lục Bát, Biến Thể Lục Bát…
Thể Lục Bát
Thơ Lục Bát, còn được gọi là thơ 'Sáu Tám', vì câu đi trước có 6 chữ, còn câu đi sau có 8 chữ. Cứ thế mà lập lại hoài cho tới khi nào tác giả muốn ngưng bài thơ. Thông thường, bài thơ Lục Bát dừng lại ở câu 8.
1. Cách Gieo Vần- Chữ cuối của câu trên (tức câu 6) phải vần với chữ thứ sáu của câu dưới (tức câu 8. Cứ mỗi hai câu thì đổi vần, và bao giờ cũng gieo vần bằng (còn gọi là bằng hoặc bình, tức có dấu huyền hoặc không dấu). Ký hiệu của bằng là B. Ðặc biệt chữ thứ tư của câu 6 và câu 8 và chữ thứ bảy của câu 8 luôn luôn được gieo ở vần trắc hay trắc (tức có dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã, hoặc dấu nặng). Ký hiệu của trắc là T. Chữ thứ sáu của câu 8 được gọi là yêu vận (vần lưng chừng câu), và chữ thứ 8 của câu tám được gọi là cước vận (vần cuối câu). Vận hay vần là tiếng đồng thanh với nhau. Gieo vần thì phải hiệp vận (tức cho đúng vận của nó). Ví dụ: hòn, non, mòn, con... Nếu gieo vần mưa với mây thì bị lạc vận. Còn nếu gieo vần không hiệp với nhau thì gọi là cưỡng vận. Ví dụ: tin đi với tiên.
2. Luật Bằng Trắc- Cách dùng mẫu tự và viết tắt như sau: B là Bằng, T là Trắc, V là Vần.
Câu 6: B - B - T - T - B - B
Câu 8: B - B - T - T - B - B - T - B
Ví dụ:
Câu 6: Trăm năm | trong cõi | người ta
Câu 8: Chữ tài | chữ mệnh | khéo là | ghét nhau
Câu 6: Trải qua | một cuộc | bể dâu
Câu 8: Những điều | trông thấy | mà đau | đớn lòng
(Kiều)
Ghi chú: Chữ là và đau là yêu vận (tức là vần đặt ở trong câu); chữ nhau và lòng là cước vận (tức là vần đặt ở cuối câu). Chữ thứ 6 của câu 6 (ta) hiệp vận (V) với chữ thứ 6 của câu 8 (là), chữ thứ 8 (nhau) của câu 8 hiệp vận (V) với chữ thứ 6 (dâu) của câu 6, chữ thứ 6 (dâu) của câu 6 hiệp vận (V) với chữ thứ 6 (đau) của câu 8.
Biệt lệ- Tuy luật bằng trắc đã qui định như ở trên, nhưng những chữ thứ 1, thứ 3 và thứ 5 nếu không theo đúng luật thì cũng không sao. Cái biệt lệ ấy được gọi là 'nhất, tam, ngũ bất luận', có nghĩa là chữ thứ 1, chữ thứ 3 và chữ thứ 5 không kể (bất luận), tức không nhất thiết phải theo đúng luật. Còn các chữ thứ 2, chữ thứ 4, và chữ thứ 6 bắt buộc phải theo đúng luật (phân minh), do câu 'nhì, tứ, lục phân minh'.
Ví dụ:
Trăm năm trong cõi người ta (Kiều)
(Ghi chú: chữ thứ 3 (trong) đáng lẽ thuộc vần Trắc, nhưng lại đổi thành vần Bằng).
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (Kiều)
(Ghi chú: chữ thứ 1 (Chữ) và thứ 5 (khéo) đáng lẽ thuộc vần Bằng, nhưng lại đổi thành vần Trắc).
3. Thanh-Thanh gồm có Trầm Bình Thanh và Phù Bình Thanh. Trầm Bình Thanh là những tiếng hay chữ có dấu huyền. Ví dụ: là, lòng, phòng... Phù Bình Thanh là những tiếng hay chữ không có dấu. Ví dụ: nhau, đau, mau... Trong câu 8, hai chữ thứ 6 và thứ 8 luôn luôn ở vần Bằng, nhưng không được có cùng một thanh. Có như thế, âm điệu mới êm ái và dễ nghe. Nếu chữ thứ 6 thuộc Phù Bình Thanh thì chữ thứ 8 phải thuộc Trầm Bình Thanh, và ngược lại.
Ví dụ:
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
(Ghi chú: là thuộc Trầm Bình Thanh, nhau thuộc Phù Bình Thanh).
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
(Ghi chú: đau thuộc Phù Bình Thanh, lòng thuộc Trầm Bình Thanh).
4. Phá Luật-Thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp người làm thơ thích phá luật ở chữ thứ hai câu 6, thay vì vần bằng thì lại đổi ra vần trắc; còn chữ thứ tư thì có khi đổi thành vần bằng thay vì vần trắc như thường lệ. Câu 6 cũng được ngắt ra làm hai vế.
Ví dụ:
Mai cốt cách | tuyết tinh thần (B T T T B B)
Mỗi người | một vẻ | mười phân | vẹn mười (T B T T B B T B)
(Kiều)
Ðau đớn thay | phận đàn bà (B T B T B B)
(Kiều)
Khi tựa gối | khi cúi đầu (B T T B T B)
(Kiều)
Ðồ tế nhuyễn | của riêng tây (B T T T B B)
Sạch sành sanh vét | cho đầy túi tham (T B B T B B T B)
(Kiều)
Biến Thể Lục Bát
Biến Thể Lục Bát là thể văn biến đổi ở cách gieo vần.
Ví dụ:
Câu 6: Vừa ra đến chợ một khi
Câu 8: Thấy rồng che phủ tứ vi một người
Câu 6: Nguyên nàng số lý nghề nòi
Câu 8: Dưới đất trên trời thuộc hết mọi phương (T T B B T T B B)
(Truyện Lý Công )
Chú thích: Câu tám thứ hai vừa phá luật vừa biến thể. Chữ thứ tư (trời) của câu 8 lại vần với chữ thứ sáu (nòi) của câu 6.
Hoặc:
Câu 6: Khoan khoan chân bước bên đường
Câu 8: Thấy chàng họ Lý ngồi đương ăn mày
Câu 6: Ðầu thời đội nón cỏ may
Câu 8: Mặt võ mình gầy cầm sách giờ lâu (T T B B B T B B)
(Truyện Lý Công)
Chú thích: Câu tám thứ hai vừa phá luật vừa biến thể. Chữ thứ tư (gầy) của câu 8 lại vần với chữ thứ sáu (may) của câu 6.
Trên đây là một số niêm luật căn bản của thơ Lục Bát. Làm thơ Lục Bát tuy dễ mà khó. Cái khó là ở cách gieo vần, làm sao đừng cho bị lạc vận hoặc cưỡng vận. Một bài thơ hay mà bị lạc vận hoặc cưỡng vận thì sẽ làm hỏng cả bài thơ, cũng giống như một con sâu làm hỏng cả nồi canh ngon vậy!
Người viết sẽ nêu một vài ví dụ điển hình để bạn thấy những khuyết điểm nho nhỏ mà người làm thơ không để ý tới, có thể vì chưa nắm vững niêm luật hoặc cũng có thể vì coi thường niêm luật. Sự không hiệp vận ấy gọi là cưỡng vận hay ép vận (tin đi với tiên) và lạc vận (mưa đi với mây).
(Ghi Chú: Về Vần hay Vận, xin xem một bài viết riêng về Thanh, Bằng Trắc và Vần của cùng tác giả sẽ cống hiến các bạn trong một dịp khác.)
Ví dụ:
Nhớ xuân lửa đạn rừng đồi
Nhớ đêm không ngủ cuối trời Việt Nam
Bây giờ mượn chút thời gian
Chia cho hiện tại để làm quà Xuân
Chú thích:
đồi đi với trời là Cưỡng vận (đồi với trời thuộc Vần Thông,1 chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).
Nam đi với gian là Lạc vận (Nam và gian không thuộc Vần Chính 2 và Vần Thông).
gian đi với làm là Lạc vận (gian và làm không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
Nhớ mi quầng biệt Quỳnh Côi
Nhớ hương bồ kết nhớ người mẹ quê
Chú thích:
Côi đi với người là Lạc vận (Côi và người không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
Nhớ em phụng phịu: trời mưa
Giao thừa chẳng được vui đùa với nhau
Chú thích:
Mưa đi với đùa là Cưỡng vận (mưa và đùa thuộc Vần Thông, chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).
Có người hôm ấy chải đầu
Vô tình tóc cứ bay vào vai ta
Chú thích:
đầu đi với vào là Lạc vận (đầu và vào không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
Ly cà phê Mỹ nhạt hơn
Nhưng đầy chất đắng trong hồn tha hương
Chú thích:
hơn đi với hồn là Cưỡng vận (hơn và hồn thuộc Vần Thông, chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).
Vẫn không gian ấy bão bùng
Hay mồ hôi tưới trên thung lũng cằn
Bây giờ ngồi giữa thế gian
So giây ướm thử mấy gam giao mùa
Chú thích:
cằn đi với gian là Lạc vận (cằn và gian không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
gian đi với gam là Lạc vận (gian và gam không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
Gió thơm từ thuở hoàng hôn
Theo chân ánh sáng về ôm ngang trời
Chú thích:
hôn đi với ôm là Lạc vận (hôn và ôm không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
Rừng Xuân hoa lá êm đềm
Có người thơ thẩn đi tìm phong lan
Chú thích:
đềm đi với tìm là Lạc vận (đềm và tìm không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
Qua các dẫn chứng trên đây, người viết hy vọng bạn sẽ tránh được các lỗi lầm đáng tiếc, để bài thơ Lục Bát của bạn được êm ái và hoàn hảo hơn. Ðừng vì tiếc công hoặc ngại khổ mà làm hỏng đi một bài thơ hay. Nếu cần vứt bỏ mười bài thơ (bị hỏng niêm luật) để chỉ còn giữ lại một bài thơ hay (đúng niêm luật) thì bạn cũng nên làm. Chúc bạn thành công.
Vĩnh Liêm
Ghi chú:
1 Vần Thông là những vần chỉ hợp nhau về thanh, còn âm thì tương tự chứ không hợp hẳn.
2 Vần Chính là những vần mà cả thanh lẫn âm đều hợp nhau.
Đặng Minh Đức - dangminhduc.sdh@gmail.com - 0988097984 - 17, 191/46 Lạc Long quân Nghĩa Đô Cầu Giấy Hà Nội
(Ngày 12/02/2015 8:01:58)
Tác giả nên xem lại đoạn "chữ thứ bảy của câu 8 luôn luôn được gieo ở vần trắc hay trắc (tức có dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã, hoặc dấu nặng)" trong phần "Cách gieo vần". Nếu đúng như vậy thì nhiều ví dụ của tác giả đưa ra trong bài là sai! Rất cảm ơn. |