Thứ sáu, 29/03/2024,


Nguyễn Du hiện đại hơn các nhà văn hiện đại (17/03/2012) 
 
I) Tình yêu hiện đại của Kim Trọng - Thúy Kiều
 
Truyện Kiều của Nguyễn Du thấm đẫm văn hoá Nho Giáo nhưng văn hoá Nho Giáo có một điều rất thú vị là không biết từ bao giờ cái sự nói dối về quan hệ giới tính được nghiễm nhiên thừa nhận và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong suốt hàng nghìn năm nay. Ai cũng biết nhưng dư luận xã hội và ai cũng chấp nhận một cách tự nguyện.
Từ xã hội đến gia đình, dòng họ, dòng tộc đều bị những giáo lý của Nho Giáo chi phối. Quan hệ cha con, vợ chồng, nam nữ được quy định rất rạch ròi, mỗi thành viên phải nghiêm cẩn chấp hành, thực hiện không bàn cãi, suy xét. Nhiều quy tắc của xã hội là bất biến. Chỉ xét trong quan hệ nam – nữ, tức là quan hệ giới tính đã thấy nhiều điều trái xoáy. Nho Giáo quy định “ Nam nữ thụ thụ bất thân” - Đàn ông và đàn bà không được gần (chung đụng) với nhau. Ơ hay, quả thật có điều này thì làm sao có con. Giáo lý này ngấm sâu vào tiềm thức mỗi người, mỗi cá nhân trong gia đình. Khách đến thăm nhà, hỏi chủ nhà được mấy con (người Việt từ xưa đã quan niệm con và của là biểu hiện hạnh phúc, sự thịnh vượng của mỗi gia đình). Câu trả lời cửa miệng là “ Cảm ơn ( bác, cô, chú…) nhà em nhờ trời được 2, 3 (5, 7) cháu ạ”. Cứ làm như có con cái là do trời cho chứ không phải là do vợ ( hoặc chồng) mình đẻ ra. Nghĩa là cái việc thiết thực, đương nhiên, tất yếu là hạnh phúc giới tính bị dấu giếm. Ai nhắc đến lạc thú, niềm vui giới tính bị coi như suồng sã, hạ tiện trước dư luận xã hội, mặc dù ai cũng cần, cũng có, cũng làm, cũng tận hưởng nó. Đến những sự thật lịch sử cũng che giấu, cũng lẩn tránh dưới mọi hình thức tôn giáo và lực lượng siêu nhiên là thần thánh. Một Phù Đổng Thiên Vương ra đời là do mẹ dẫm phải lốt chân lạ trong vườn cà mà có thai. Một Lý Thái Tổ – Vị vua lỗi lạc bậc nhất trong lịch sử Việt Nam cũng ra đời do mẹ dẫm phải vết chân rái cá. Nghĩa là dân gian nghĩ rằng những bậc thánh nhân này phải là do trời đất sinh ra chứ không phải là do đàn ông và đàn bà tạo ra.
Cái lễ giáo phong kiến ngặt nghèo ấy được thể hiện suốt dòng chảy văn hoá Nho Giáo. Đến tận thế kỷ XVIII với bước nhảy vọt xuất thần của văn học Việt Nam với những Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Công Trứ ta mới thấy xuất hiện tư tưởng chống đối lại.
Xét tất cả những tác giả làm nên nền văn học Việt Nam rực rỡ thế kỷ XVIII, đến Nguyễn Du thì mới xuất hiện sự chống đối quyết liệt và hiệu quả nhất. Sự chống đối của Nguyễn Du không phải là sự phá phách vô lối, mà là sự giải phóng sự ức chế, cưỡng bức của libido mà xuất phát từ chủ nghĩa nhân văn cao cả, xuất phát sự thật (tiêu chí lớn nhất, bao trùm nhất của nghệ thuật), từ đòi hỏi tất nhiên, vốn có của con người. Coi sự chống đối, đập phá cái xiềng xích tàn bạo của lễ giáo phong kiến qua việc ông để cho Thuý Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” hoặc Kim Trọng “xăm xăm đè nẻo Lam Kiều tìm sang” là chỉ mới xem xét về hình thức. Hoặc ông là nhà văn trung đại đầu tiên tả phụ nữ tắm nude. Nàng Kiều tắm hai lần, trong đó có cảnh “Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên” là tỏ thái độ chống đối là mới chỉ là hình thức. Nguyễn Du còn táo bạo hơn, tinh vi và quyết liệt hơn nhiều, ông nắm bắt được tâm lý con người, thấu hiểu khát vọng con người nên ông đã vượt tất cả những nhà thơ tài ba cùng thời.
Lần gặp ngẫu nhiên nhưng không tình cờ chút nào giữa Kim Trọng và Thuý Kiều ở bờ rào nhà Vương ông và nhà trọ Kim Trọng thuê (với mục đích gặp lại Hai Kiều): “Tan sương đã thấy bóng người. Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ” nghĩa là cuối buổi sáng (tan sương) Kim Trọng mới gặp Thuý Kiều. Gặp lại người cũ và đó là một trong Hai Kiều mà chàng hơn hai tháng nay “Mặt tơ tưởng mặt lòng khao khát lòng” kể từ buổi gặp nhau ở bữa đi chơi Thanh minh. Gặp nhau Kiều và Kim Trọng có dịp, có cơ hội trao đổi với nhau kỷ vật để rồi trong buổi sáng ấy lúc gần trưa Kim Trọng đặt vấn đề:
 
“Tiện đây xin một hai điều
Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?”
 
Tất nhiên, người đọc đoán được rằng, Thuý Kiều, con nhà gia giáo ấy chẳng dễ dàng nhận lời, dù nàng đã rất yêu Kim Trọng, bởi cả Thuý Kiều, Kim Trọng và chúng ta (những người đọc) đều ra đời và sống trong những quy ước của Nho Giáo. Rằng có gia phong, gia huấn, gia lễ, gia đạo, có cha mẹ :
 
“Ngần ngừ nàng mới thưa rằng
Thói nhà băng tuyết chất bằng phỉ phong
Dù khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha”
 
Rồi thì:
 
“Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa”
 
Ơ hay, nàng đã gặp Kim Trọng rồi, đã phạm tội lén lút gặp trai rồi đấy. “Thói nhà băng tuyết chất bằng phỉ phong” của nhà mình đâu rồi!
Thuý Kiều không trả lời đồng ý vì nhưng giáo lý ràng buộc chứ đâu có phải nàng không đồng ý. Với Kim Trọng cũng vậy “Đến đây mận mới hỏi đào. Vườn hồng đã có ai vào hay chưa” đó là văn hoá người Việt ta, tế nhị, kín đáo nói vòng vo, ám chỉ. Lần gặp gỡ này kéo dài không lâu nhưng cũng đủ cho hai người trao đổi tình cảm với nhau, rồi phải chấm dứt vì “mé sau dường có xôn xao tiếng người”.
Lần gặp thứ hai này giữa Thuý Kiều và kim Trọng làm thay đổi về chất quan hệ tình cảm của hai người, lần gặp gỡ thứ nhất (ở Hội Đạp Thanh - đi tảo mộ (mùng 3- 3)) chỉ mới là gặp để có gặp, để có lý do cho những lần gặp sau.
 
Nhẫn từ quán khách lân la
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai
 
 
 
Như vậy lần này Thuý Kiều gặp Kim Trọng là đầu tháng 5 (“Thanh Minh trong tiết tháng ba” + 2 tháng). Sau lần gặp thứ hai, Thuý Kiều và Kim Trọng đã thề ước với nhau đã “Từ phen đá biết tuổi vàng. Tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ” để “Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia”. Rồi ở câu thơ 369 cho biết:
 
“Lần lần ngày gió đêm trăng
Thưa hồng rậm lục thấy chừng xuân qua”
 
(Hoa ít đi, rụng đi (thưa hồng) lá xanh dần rậm lên (rậm lục) nghĩa là thời gian giữa hai lần gặp nhau là rất gần. Lần gặp thứ ba (nhưng là lần gặp riêng thứ hai giữa hai người) là dịp cả nhà Vương Ông về quê ngoại dự sinh nhật, nhà thơ tìm lý do cho Kim Trọng và Thuý Kiều gặp nhau. Nhưng nhà thơ đa tình của chúng ta đã cố tình vi phạm lễ giáo phong kiến.
Ai cũng biết Thuý Vân là con gái, lại là con gái thứ chứ không phải là chị cả. Con trai nhà Vương Ông là Vương Quan. Về nhà ngoại, tất nhiên là Vương Quan phải đi cùng bố mẹ. Sau Vương Quan là chị cả Thuý Kiều phải đi chứ sao lại để Thuý Vân, là em đi. Thế là không phải đạo, không phải lẽ. Người ở nhà, trông nhà phải là Thuý Vân. Hoặc nếu là cần người ở nhà tiếp khách hoặc giải quyết việc gì đó thì phải con trai – Vương Quan chứ (thì cứ cho là ngày ấy con trai là quan trọng như quan niệm Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô).
Nhưng với Nguyễn Du, cần một lý do cho Thuý Kiều và Kim Trọng gặp nhau và gặp nhau nhiều lần dịp đó nên ông để cho Thuý Kiều ở nhà, và rồi mọi sự đã xảy ra. Thuý Kiều đã có ý định sẵn rồi chỉ còn chờ cơ hội “Nhà lan thanh vắng một mình – Ngẫm cơ hội đã giành hôm nay” và nàng chuẩn bị cỗ bàn một cách chủ động để đi mời Kim Trọng đến nhà - Khi chỉ có một mình nàng ở nhà – “Thì trân thức thức sẵn bày” Của ngon vật lạ rất nhiều thứ bày ra, rồi nàng đi sang vườn hàng xóm: “Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường”, thì đã thấy Kim Trọng cũng đã chờ sẵn bên đó: “Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông” và nàng nói với người yêu, chủ động khi ra đây gặp chàng, nói cho chàng biết “Vắng nhà được buổi hôm nay” - Điều này để cho Kim Trọng biết điều kiện, hoàn cảnh của họ ngày hôm nay là hoàn toàn tự do, để rồi hai người có thể làm được những việc khác. Rồi nàng “lần theo núi giả đi vòng”, dám “Xắn tay mở khoá động đào – Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai”. Nghĩa là Thuý Kiều chủ động, bạo dạn, gấp gáp “xông” sang nhà Kim Trọng chứ không để mời chào, không còn giữ ý tứ rụt rè, không “ngần ngừ nàng mới thưa rằng” như Kim Trọng ngỏ lời ở lần gặp riêng nhau vừa mới tuần trước.
Đây là cuộc gặp riêng lần thứ nhất. Lần này là ban ngày, suốt một ngày hai người tỏ tình, chuyện trò, xem và đề tựa tranh, Thuý Kiều gẩy đàn, nói chuyện về số phận của mình qua lời người tướng sĩ đã đoán hồi nàng còn nhỏ… Rồi hai người tâm sự, tự tình, thề với nhau.
Cả ngày hôm đó, Kiều đã ở nhà Kim Trọng đến chiều tối “Trông ra ác đã ngậm gương non đoài”. Mặt trời sắp lặn xuống núi, nàng mới ra về.
Về đến nhà Thuý Kiều biết bố mẹ đi dự sinh nhật chưa về, nàng đóng cửa và trở lại nhà Kim Trọng. Nguyễn Du để cho nàng đi trong bóng trăng đêm, vườn cây nhà nàng rực rỡ dưới ánh trăng nhưng nhà thơ đã mượn những cành cây che bớt ánh sáng trăng để nàng đi gặp người yêu “Nhặt thưa gương dọi đầu cành”. Kim Trọng vừa mơ màng ( chắc là cái dịu ngọt êm đềm chiều nay vừa ngấm) thì Kiều đã vào nhà. Lần này nữa, lần gặp riêng thứ hai này vẫn là nàng (con gái) chủ động đến.
 
“Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”
 
Và nàng vào phòng Kim Trọng, hai người vừa viết lời thề (tiên thề cùng thảo một chương) cắt tóc thề với nhau có ánh trăng: “vằng vặc giữa trời” làm chứng cho lời thề của hai người. Và điều kỳ lạ nhất của đôi lứa trai gái sống và thấm nhuần lễ giáo của Nho Giáo đã lần đầu tiên xảy ra trong văn học Trung đại Việt Nam:
 
Chén hà sánh giọng quỳnh tương
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng
 
Hai người cùng uống rượu. Bình thường thôi, chẳng có gì ghê gớm. Rồi đến giải là = dải áo bằng là (lụa, là, the, đũi… chất liệu vải) hương (mùi hương của những dải áo bằng là và hương cơ thể hai người), lộn = lẫn nhau, trộn vào nhau. Giải áo (bằng là) của hai người đã được mùi hương của nhau trộn lẫn. Như vậy là áo của hai người đã lẫn vào nhau chứ không phải gần nhau nữa. Và trang phục ngày xưa (cứ cho là năm Gia Tĩnh triều Minh) như ta vẫn thấy là nam nữ mặc áo dài, có dải, thường là ngang hông hoặc ở cổ áo để buộc, thắt lại khi mặc. Bây giờ dải áo hai người đã không còn thắt, buộc nữa mà đã quấn vào nhau hương mới (lẫn) lộn vào nhau được. Điều đó được khẳng định ở: “Bình gương bóng lồng”, tức là hai người phải ở tư thế nhập làm một nên trong gương bóng hai người mới lồng vào nhau. Trong phòng lúc đó chỉ có ánh sáng mờ ảo (ánh sáng của sáp “Đài sen nối sáp lò đào thêm hương) và bóng hai người lồng vào nhau trong gương thì phải là người đang ôm nhau. Nguyễn Du ghê gớm nhưng chỉ vì ông nêu lên một sự thật của những đôi trai gái yêu nhau mà các nhà nho khác không giám nói, vờ như không biết có đến hàng nghìn năm nay.
Rồi thì Kim Trọng, như lẽ thường tình tất nhiên của con trai khi ngồi với người yêu, chàng thăm dò:
 
Chày sương chưa nên cầu Lam
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng
 
Thuý Kiều đang yêu, nàng thừa hiểu “Lòng vả cũng giống lòng sung” thôi mà. nàng không ngăn cấm mà lại khéo léo khuyến khích:
 
“Đừng điều nguyệt nọ hoa kia
Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai”
 
Cái giới hạn “nguyệt nọ hoa kia” là ở đâu, cũng rất mong manh và mơ hồ. Thuý Kiều nhận biết hai người đã “đầu mày cuối mặt càng nồng tấm yêu” khi mà “Sóng tình dường đã xiêu xiêu – xem trong âu yếm có chiều lả lơi” cũng như mọi cô gái con nhà gia giáo. Nàng lấy ví dụ đôi lứa Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thuỵ để nhẹ nhàng, tế nhị ngăn Kim Trọng chớ quá đà. Nàng lấy trách nhiệm và đạo đức của người vợ “Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu” để thuyết phục người tình. Rất hợp lý và khéo léo và cùng với lời hứa “Vườn hồng chi giám ngăn rào chim xanh” làm cho Kim Trọng vừa nể vừa biết kìm nén tình cảm của mình. Và ngay ở lần gặp riêng thứ 2 này, trừ cái việc cuối cùng là Thuý Kiều từ một trinh nữ chưa thành phụ nữ còn thì hai người đã làm tất cả. Thế thì còn “thụ thụ bất thân” cái nỗi gì. Và cái việc chưa làm đó, sau này (dù có lý do là “Biết thân đến bước lạc loài”) chính Thuý Kiều đã ân hận “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”.
Lần gặp gỡ này của Thuý Kiều và Kim Trọng đã xảy ra suốt cả đêm. Đến rạng sáng “Bóng tàn vừa lạt rẻ ngân” mới dừng và cũng chỉ dừng vì có người nhắn gọi từ phía “cửa ngăn”. Nếu không, cuộc gặp gỡ ấy còn chưa biết kéo dài đến bao giờ.
Như vậy, mới chỉ hai lần gặp riêng giữa Thuý Kiều và Kim Trọng, trong đó lần thứ hai kéo hết đêm cũng là do Thuý Kiều chủ động. Hai lần gặp này Thuý kiều đã xé bỏ và dập tan cái giáo lý “Nam nữ thụ thụ bất thân” của Nho Giáo kéo dài, áp đặt suốt cả nghìn năm lên đời sống và văn hoá Việt Nam.
Sự chống đối lễ giáo phong kiến của Nguyễn Du mới quyết liệt và ghê gớm làm sao và Nguyễn Du cũng là nhà văn hiện đại hơn mọi nhà văn hiện đại kể cả ở thế kỷ XXI này.
 
II) Với Truyện Kiều, Nguyễn Du hiện đại hơn các nhà văn hiện đại
 
Thuý Kiều lấy Từ Hải là lần lấy chồng thứ 4. Khi gặp Từ Hải nàng không còn là một cô gái mới vào đời, ngây thơ nữa mà đã trải qua trường tình đầy oan khuất. Đối với nàng lúc này cuộc đời chỉ là tồn tại cho qua ngày tháng mà thôi.
Ở lứa tuổi gần 30, những va chạm với cuộc đời, bị dày xéo chà đạp đến não nề, mọi tình cảm yêu đương, đôi lứa trong nàng đã chết. Mọi rạo rực, hồi hộp, phấp phỏng chờ đợi mà nàng đã có ở tuổi cập kê với Kim Trọng không còn mà sự đằm thắm, sâu sắc trong tình cảm của người phụ nữ đối với chồng cũng là với người yêu Thúc Sinh không còn nữa. Bây giờ Nàng buông xuôi tất cả, cả cuộc đời và tình cảm thường tình của một con người, của một người con gái đã đến tuổi trưởng thành. Lứa tuổi đáng ra là viên mãn của con gái, còn rạo rực tuổi thanh xuân đầy đặn, còn sức khoẻ và có đủ tri thức và kinh nghiệm sống, đủ để nhận biết những gì còn thiếu và cần bổ sung những gì cho tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Nhưng tâm hồn Nàng đã khô héo, đã tàn lụi và đã chết. Nàng chấp nhận:
 
Biết thân chạy chẳng khỏi trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh
 
Cuộc sống trong lầu xanh lần thứ ba này tưởng như là nấm mồ vĩnh viễn vùi sâu chôn chặt cuộc đời nàng thì bỗng Từ Hải xuất hiện.
Nguyễn Du đã để cho Từ Hải xuất hiện với tính cách của con người thế kỷ XXI, không còn dấu vết của Nho Giáo thế kỷ XVII, ánh hào quang rực rỡ làm sáng bừng lên cuộc sống của Kiều. Từ Hải là người đàn ông đích thực trong mắt Thuý Kiều – một người đàn bà:
 
Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng lưng mười thước cao
Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài
 
Người đàn ông Từ Hải ấy ban đầu cũng chỉ là người đi chơi lầu xanh mà thôi chứ gặp Kiều không phải là duyên như với Kim Trọng, không phải đã có thời gian “Sớm đào tối mận lân la” để rồi “ Trước còn trăng gió sau ra đá vàng” để có điều kiện gần nhau “tìm hiểu” như với Thúc Sinh: “Khi gác gió khi trăng sân/ Tay tiên chuốc rượu câu thần nối thơ/ Khi hương sớm khi trà trưa/ Bàn vây điểm nước đường tơ hoạ đàn” để rồi cả hai người “Càng quen thuộc nết càng dan díu tình”.
Từ Hải đi chơi lầu xanh vô tình nghe người ta kháo nhau về một cô gái lầu xanh :“Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều” và xưa nay “Anh hùng không qua ải mỹ nhân” nên “Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng” và Từ Hải thử ghé vào. Cái sự vô tình ấy đã gặp phải tiếng sét ái tình. Và Thuý Kiều khi nhận được “Thiếp danh đưa đến lầu hồng” – nàng không còn “E lệ nép vào dưới hoa” không còn “ghé theo” như khi Kim Trọng chia tay ở Hội Đạp Thanh mười mấy năm về trước, không còn thổn thức với đất trời, với cây cỏ:
 
“Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng xuân
Hải đường lả ngọn đông lân
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà”
 
Cũng không cần thời gian để suy tính như với Thúc Sinh trước khi nhận lời cầu hôn của anh chàng sinh viên kiêm nghề buôn hàng xén này nữa. Mà với tuổi tác, với sự trưởng thành về tâm sinh lý và quan trọng nhất là sự rung động của trái tim trước một người đàn ông ngay lập tức “Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa”.
Nói như ngôn ngữ bây giờ của các bạn trẻ là “tình yêu sét đánh” “là từ cái nhìn đầu tiên”.
Tôi cho rằng Từ Hải tìm gặp Kiều trước hết là tò mò vì “xa nghe nức tiếng nàng Kiều” rồi khi gặp Kiều đã “cùng liếc” “cùng ưa” chàng nói ngay cái tò mò của mình “Bấy lâu nghe tiếng má đào. Mắt xanh chẳng để ai vào có không”. Kiều thanh minh rằng: Tôi không kiêu căng thế đâu, chẳng qua là:
 
Đốt than chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu.
 
Và Từ Hải, cái anh chàng đẹp trai, ngang tàng nhưng cũng rất nghệ sĩ “Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo” ấy tỏ ra rất galăng trong cử chỉ, hành động và lời nói. Hỏi người con gái vừa quen với cái giọng galăng “Mắt xanh chẳng để ai vào có không?” rồi sau đó với giọng mang đậm chất anh chị có phần ngổ ngáo:“lại đây xem lại cho gần – Phỏng tin được một vài phần hay không”. Rồi thì nàng Kiều, có một chút kinh nghiệm sống đã đề cao Từ Hải “Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”. Trời ơi : “Mây rồng” từ xưa để chỉ quân vương, thiên tử, để chỉ lực lượng tiêu biểu cho mọi vương triều, bây giờ nàng Kiều dám đoán – gán cho Từ Hải mà theo quan niệm chính thống là giặc. Tôi cứ cho là nàng Kiều lúc đó nịnh Từ Hải mà tâng bốc anh ta. Kiều có học, giỏi mọi thứ nhưng không phải là chính khách, lại ở trong lầu xanh. Nàng đâu có vị trí và điều kiện như “quan tổng đốc trọng thần” Hồ Tôn Hiến và biết được quân cơ, biết được tình hình xã hội quân sự để mà khẳng định sự nghiệp của Từ Hải sau này “Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”. Bản thân Từ Hải cũng không biết mà chỉ đánh giá những lời Thuý Kiều nói chỉ là “đoán” – “anh hùng đoán giữa trần ai mới già” và sẵn tính galăng và nghệ sĩ, cái “ông tướng cướp” đi “tán gái ” ấy hứa xanh rờn:
 
“Một lời đã biết đến ta
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau”
 
Ngạn ngữ Rumani có nói: “Đừng tin những lời hứa của những người đang yêu”. Nhưng ở đây mọi việc sẽ xảy ra đúng như Kiều “đoán”. Có lẽ là ngẫu nhiên trong cái tất nhiên là với tài năng của Từ Hải, với xã hội thối nát nhiễu nhương ấy Từ Hải đã làm được cái việc “Rạch đôi sơn hà”. “Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam” đó là chuyện về sau. ở đây ta đang bàn về tính hiện đại của Nguyễn Du, về tài năng siêu việt của Nguyễn Du trong phong cách và thể hiện tâm lý nhân vật, là tính tiên phong vượt thời đại của Đại thi hào. Như vậy là ông quan Nguyễn Du đã để một nàng Kiều con gái Viên ngoại họ Vương, gia phong nề nếp, có học, rất hiểu biết lễ giáo, hiểu biết tôn tri trật tự xã hội, hiểu biết “Tam cương ngũ thường” và “Tam tòng, tứ đức” đi yêu và lấy một thằng giặc. Và cũng chính một người “anh hùng hơn sức, lược thao gồm tài” ấy, một “Đại vương” tên Hải họ Từ một “Từ công” “Sức tài trí dũng nghiêng trời uy linh” lại yêu một “con đĩ” hơn nữa dám lấy “con đĩ” làm vợ. Mọi ràng buộc, mọi giáo lý, mọi quan niệm, mọi thiết chế ghê gớm của chế độ phong kiến và lễ giáo xã hội đã phải đầu hàng trước tình yêu, trước nhịp đập của trái tim.
Một Romeo và Juliet dám bước qua lời nguyền, vượt qua mâu thuẫn, xung đột của hai dòng họ để yêu nhau. Một công chúa Tiên Dung dám yêu anh dân chài nghèo không có khố mà mang là Chử Đồng Tử nhưng chỉ có thiên tài Nguyễn Du mới dám cho “anh hùng” “đại Vương” lấy đĩ về làm vợ. Xuất phát từ tấm lòng nhân ái bao la nhưng cũng xuất phát từ tầm nhìn vượt thời gian, không gian Nguyễn Du mới làm được.
Tình yêu đôi lứa, hạnh phúc đang tràn trề “nửa năm hương lửa đang nồng” nhưng Từ Hải phải ra đi. Thuý Kiều xin đi theo, bởi ngoài hạnh phúc và tình yêu nàng biết bổn phận của mình theo đạo lý:
 
“Nàng rằng phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
 
 
Nghĩa là Thuý Kiều thấm nhuần sâu sắc Tam tòng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Lấy chồng theo chồng. Chính vì vậy về sau, khi Từ Hải chết vì bị Hồ Tôn Hiến đánh bại, Thuý Kiều đã chết theo Từ Hải. Thuý Kiều thấm nhuần giáo lý đó và tất nhiên Từ Hải cũng hiểu điều đó, để đòi hỏi, yêu cầu vợ mình điều đó. Nhưng Từ Hải đã ra đi một mình, không cho Kiều đi theo là đúng, bởi:
 
“Bằng nay bốn biển không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu”
 
Chiến tranh loạn lạc, Từ Hải ra đi chỉ dặn vợ rằng:
 
“Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”
 
Lại thể hiện tính cách của một hiệp sĩ – nghệ sĩ rất galăng. Và Thuý Kiều đã chờ chồng. Ngay cả khi chiến sự khốc liệt ập đến nơi nàng ở, nhiều người chạy loạn nhiều người khuyên nàng “hãy tạm lánh mình một nơi”. Thuý Kiều nhất định không đi dù nguy hiểm của chiến tranh đe doạ bởi “Trước đã hẹn lời” cho nên “dám rời ước xưa”. Nàng quyết ở lại chờ chồng.
Thuý Kiều chờ chồng bất chấp nguy hiểm bởi nàng yêu chồng và đang sống rất hạnh phúc với chồng bằng tình yêu. Nhưng là một con người, một người đàn bà nên dù đang hạnh phúc, đang có chồng nhưng nàng vẫn nhớ, vẫn tiếc, vẫn yêu Kim Trọng là người yêu xưa, người tình một thuở. Nguyễn Du đã làm cái mà cho đến lúc này (thế kỷ XVIII) không nhiều người dám làm, dám nói ra sự thật là trái tim con người muôn đời vẫn như thế, vẫn có những phút giây “ngoài chồng ngoài vợ”:
 
“Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”
“Đường kia, nỗi nọ ngổn ngang bời bời”
 
Nàng nhớ cha mẹ, tất nhiên, nhớ em gái “may ra thì đã tay bồng tay mang”. Em mình đã có con, có con với Kim Trọng, với người yêu của mình. Vậy là sự đời như thế. Cũng như Kim Trọng đã lấy Thuý Vân, sống với Thuý Vân có một gia đình hạnh phúc, được Thuý Vân chăm sóc cho học hành để rồi đỗ đạt, đã có đông con cái với Thuý Vân “Một cây cù mộc đầy sân quế hoè” nhưng vẫn nhớ, vẫn yêu Thuý Kiều:
 
Khi ăn ở, lúc vào ra
Càng âu duyên mới càng dào tình xưa
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ
Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng
Có khi vắng vẻ thư phòng
Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa
 
Mới hay Kim Trọng đã có vợ, đang sống với vợ nhưng không những vẫn nhớ người yêu cũ, vẫn thương người yêu cũ, vẫn “trốn” vợ trong phòng riêng (vắng vẻ thư phòng) lấy kỷ vật người yêu cũ ngắm nghía, sống với kỷ niệm của mối tình xưa. Sống với người yêu cũ,với giọng nói với hình hài người yêu cũ:
 
“Dường như bên ốc trước thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng”
 
Cũng như Thuý Kiều vẫn nghĩ về chồng cũ là thúc Sinh với sự nuối tiếc “Chẳng trăm năm cũng một ngày đôi ta”.
Với Từ Hải, sau khi đã “rạch đôi sơn hà”, đưa vợ mình từ một gái lầu xanh trở thành một mệnh phụ rạng rỡ, ngồi trên ghế quan toà thay mặt công lý đầy uy quyền đã lại ngồi nghe vợ mình kể lại những ngày hàn vi cơ cực thuở xưa : “Khi Vô Tích khi Lâm Truy” “Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương”. Vô Tích lừa đảo, Lâm Truy xót thương. Lâm Truy là nơi vợ mình gặp, yêu và làm vợ Thúc Sinh. Từ Hải yêu vợ, thương vợ và cho vợ sức mạnh quyền lực để báo ân báo oán. Với Kiều, oán là Tú Bà, Bạc Hạnh, Hoạn Thư, ân là với Giác Duyên… Thúc Sinh – chồng cũ.
Từ Hải sau khi “Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang” đã cho “nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng – Dưới cờ một lệnh sắp hàng binh thao” đi truy bắt những kẻ gây đau khổ cho vợ và mời ân nhân của vợ đến để báo ân báo oán. Nhưng việc đầu tiên lại là bảo vệ cho chồng cũ của vợ mình “Lại sai lệnh tiễn truyền qua. Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên”. Tại sao lại phải “giữ giàng” “cho yên”. Rõ ràng là những lúc vợ chồng Từ Hải – Thuý Kiều tâm sự về nỗi đoạn trường của vợ đã trải qua, Từ Hải đã được Thuý Kiều kể nhiều về việc nàng làm vợ lẽ Thúc Sinh, yêu đương đằm thắm thế nào, Thúc Sinh rất yêu nàng nhưng chỉ vì “sợ vợ” nên nàng mới bị hành hạ, mối tình hai người mới tan vỡ, mới “ái ân ta chỉ có dường này mà thôi”. Thúc Sinh bỏ nàng chỉ vì sợ vợ và để giữ gia đình nên bây giờ Từ Hải mới lo gia đình Thúc Sinh sẽ lại tan vỡ nên chàng mới cho lệnh tiễn phải giữ giàng cho gia đình Thúc Sinh yên ấm.
Không ghen tuông với quá khứ của vợ, bảo vệ gia đình chồng cũ của vợ, chỉ có Từ Hải và Nguyễn Du. Rồi thì ân oán hai bên – “Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh”. Từ Hải “Việc ấy để cho mặc nàng”, ông chồng ngồi nghe vợ mình nói chuyện với chồng cũ là “Nghĩa nặng nghìn non”, là sự chia tay của hai người “Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng” là “tại ai” chứ không phải tại chàng. Mà chàng vẫn là “cố nhân”. Và rồi Từ Hải chứng kiến cảnh vợ mình đem “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cho người tình cũ. Từ Hải coi đó là “việc trong nhà” nghĩa là trách nhiệm của mình! Thật không nói vào đâu được. Ai trong chúng ta, những người đàn ông thế kỷ XXI, những người nói làu làu về bình đẳng giới, về quyền của phụ nữ lại giám làm được như Từ Hải, hiện đại như Từ Hải và Nguyễn Du?
 
 
PGS. TS Lê Đình Cúc
(Nguồn: Báo Hà Tĩnh Online)
 
Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
  Trần Mạnh Tuân - tuan_hwru@fulbrightmail.org - 091353 0266 - Hà Nội  (Ngày 09/04/2012 19:16:22)

Chào tác giả, PGS. TS. Lê Đình Cúc,

Bài viết của anh rất tuyệt vời! Cái cách viết của anh cũng đã góp phần mang thêm tính hiện đại vào Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Có đôi điều lúc mới đọc đoạn đầu định bụng sẽ trao đổi thêm với anh... nhưng đọc đến đoạn cuối thì anh đã phân tích hết cả rồi!
Đọc bài viết của anh một mạch và đúng là đến thế kỉ 21 này rồi mà mấy bậc nam nhi có thể theo được tư tưởng hiện đại của Nguyễn Du và có được cách ứng xử ga lăng và cao thượng như Từ Hải!
Chúc mừng anh! Giá mà có thể liên lạc được với anh qua email thì hay quá!

TMT

Các bài khác: