Thứ bảy, 28/12/2024,


Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi... (16/02/2012) 
 
NGẬM NGÙI

Nắng chia nửa bãi, chiều rồi...
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu,
 
Sợi buồn con nhện giăng mau,
Em ơi! Hãy ngủ anh hầu quạt đây
 
Lòng anh mở với quạt này;
Trăm con chim mộng về bay đầu giường
 
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ...
 
Cây dài xế bóng ngẩn ngơ...
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
 
Tay anh em hãy tựa đầu
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
 
1939
 
Huy Cận
 
 
 
“Ngậm ngùi” được sáng tác vào năm 1939, có mặt trong “Lửa thiêng”, tập thơ đầu của nhà thơ Huy Cận (1919- 2005), xuất bản năm 1940. Phải đặt vào hoàn cảnh những năm bốn mươi thế kỉ trước, nước nhà đang trong vòng nô lệ tối tăm, tầng lớp thanh niên trí thức như Huy Cận và các nhà thơ lãng mạn thờ ấy bế tắc, không tìm ra cái lẽ yêu đời, ta mới cảm thông và cảm nhận được cái chất thơ cùng với quan điểm nhân sinh, quan điểm thẩm mĩ mà tác giả đã gửi gắm trong thi phẩm này...
Một buổi chiều mùa thu, nắng đã chia nửa bãi, tơ nhện đã giăng mau. Cảm đoán là chiều thu bởi chỉ có chiều thu mới đẹp, buồn và diễn ra mau lẹ đến thế. Làng quê ven sông, trong ngôi nhà nhỏ giữa mảnh vườn hoang sơ mọc đầy những lùm cây trinh nữ, một đôi trai gái đang được yêu nhau, được ngủ bên nhau và được mộng mơ trong lời ru nhẹ nhàng, êm ái của tiếng thuỳ dương mấy bờ. Tình yêu trong trẻo và thật là lãng mạn, nên thơ. Họ yêu chiều nhau hết mực. Chàng vỗ về: Em ơi, hãy ngủ anh hầu quạt đây. Và nàng ngoan ngoãn ngủ êm, ngủ say trong lời giục giã âu yếm của chàng... Thế rồi, giấc mộng lớn đã đến với đôi bạn tình: Trăm con chim mộng về bay đầu giường. Mà xem ra, mộng của tuổi trẻ và tình yêu là mộng đẹp, hé mở cả chân trời hi vọng về hạnh phúc tương lai.
Nhận ra điều này, nếu như bài thơ dừng lại ở câu thứ tám sau dấu chấm lửng hoặc dẫn cảm xúc theo một chiều hướng khác. Bởi vì ngoại cảnh dù có hiu hắt, buồn vắng mà anh và em có nhau thì tình yêu vẫn thắng át đi tất cả. Nhưng không, khúc ru buồn sầu não đã cất lên từ bốn câu cuối bài. Thời gian buông mau, khi mà những hàng thuỳ dương đổ dài bóng xế ngẩn ngơ, không còn reo hát nữa thì lời thơ não lòng bật ra: Hồn em đã chín mấy mùa thương đau? Nghe như mùa thương khó trong dân gian cúng những âm hồn! Hỏi về hồn em nhưng cũng là để nói cho hồn anh, hồn chúng ta đấy. Tuổi xuân đôi mươi mà cõi hồn trải lắm nỗi thương đau đến thế thì hỏi còn gì là hương hoa, là ý nghĩa cuộc đời?! Bởi vậy mà câu thơ kết bài cứ trĩu nặng lòng người: Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
Ý tưởng vả triết lí thơ đã dồn nén tất cả vào đây. Thì ra, ở chốn nhân gian này chỉ có buồn rầu và đau khổ! Nhà thơ đã khéo xếp đặt vào câu chuyện tình cả ba dạng thức tồn tại của mỗi sinh thể người: tỉnh thức, ngủ, và mộng. Một sự kết hợp thật hoàn hảo trong tính chỉnh thể hìng tượng. Đó là cái cớ để bác lại người đời nông cạn, cứ cho rằng: tình yêu và tuôi trẻ là điều huyền diệu nhất, hạnh phúc nhất; tình yêu là vĩnh hằng và bất tử. Xin đừng ảo tưởng. Thì đây, người ta tỉnh và yêu: sầu; ngủ và yêu: sầu; đến mộng và yêu: cũng sầu!... Tất cả đều không thoát ra khỏi cái vòng kim cô của một chữ Sầu. Rồi những trái sầu kết tinh mọng chín cứ rụng rơi... rụng rơi... Đến một ngày kia, lại mọc lên những cây đời tiếp nối với khúc ca ngậm ngùi và mối sầu thiên cổ!
Nỗi đau tinh thần là nỗi đau rất lớn. Vậy mà bài thơ lại dùng giọng điệu lời ru êm đềm để tỏ nỗi buồn thương, nhớ tiếc cho kiếp người. Câu thơ lục bát truyền thống điêu luyện, nhẹ nhàng, uyển chuyển và tinh tế. Thuật dùng chữ cũng thật tuyệt vời trong sự trau chuốt những từ ngữ thuần Việt, trong cách cấu âm, phối thanh để tạo từ ngữ mới giàu tính thẩm mĩ. Các biện pháp tu từ thậm xưng, nhân hóa, hình tượng hóa... đã làm cho cảnh và tình như cùng hoà điệu trong nỗi sầu ngẩn ngơ...
Các nhà thơ lãng mạn đương thời cũng đẫ nói đến nỗi đau thân phận con người. Nhưng Huy Cận là người quan tâm nhiều nhất, viết ra bằng nhiệt hứng dồi dào nhất. Ông luôn tìm tứ thơ và đặt cảm hứng vào mối tương quan giữa cái hữu hạn của cuộc đời với cái vô cùng vô tận, cái mênh mông rợn ngợp của không gian lẫn thời gian. Cảm thức thường xuyên thường trực về nỗi sầu nhân gian đã tạo cho thơ ông có một vùng thẩm mĩ riêng không ai có được. Và “Ngậm ngùi” đã thẩm mỹ hóa nỗi sầu nhân gian ấy, xứng tầm tiêu biểu cho mảng thơ này.
“Ngậm ngùi” luôn được đưa vào các tuyển tập thơ, nhất là thơ tình. Phạm Duy, một nhạc sĩ trứ danh thời tiền chiến, đã phổ nhạc “Ngậm ngùi” từ năm 1961. Nhạc phẩm được bà con Việt kiều rất yêu thích, càng chứng tỏ giá trị nhân bản của bài thơ.
Có thể nói, “Ngậm ngùi” là một bài thơ sầu, một bài thơ tình bất hủ. Trong sự nghiệp thơ của Huy Cận, nếu “Tràng giang” đứng ở vị trí thứ nhất thì “Ngậm ngùi” phải được đứng ở vị trí thứ hai, liền ngay sau đó.
 
 
Phạm Văn Chữ
(Hà Tĩnh)
Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
Các bài khác: