Trong thi ca tiếng Việt, Lục Bát là một cõi trời mênh mông mà không hẳn nhà thơ nào cũng có thể vươn tới những đỉnh cao. Tôi tin rằng, dù thơ Việt Nam có cách tân thế nào, có những hình thức mới mẻ nào khác, thì Lục Bát vẫn tồn tại mãi, bởi vì Lục Bát là tiếng nói gần gũi, đằm thắm, thiết tha cuả người dân Việt mà ít có thể thơ nào sánh được.
1. Lời vui, mạo muội xin thưa…
Đối với người Việt Nam, làm những câu vần Lục Bát , dễ như thở không khí. Chẳng hạn: “Hôm nay mùng tám tháng ba/ chị em phụ nữ đi ra đi vào...”. Trong những dịp vui cộng đồng, những dịp họp mặt, ta thường gặp “nhà thơ dân gian” ứng khẩu ngay một bài Lục Bát rồi đọc to lên, mọi người tán thưởng, vỗ tay rôm rốp. Có người còn vận Lục Bát vào những câu hò như “a li hò lờ” sôi nổi, ấn tượng. Không khí cuộc vui trở nên hấp dẫn hơn cả đại hội nhạc Rock.
Vậy mà khi đi tìm những bài Lục Bát hay, tôi phát hiện ra nhiều nhà thơ, kể cả những nhà thơ nổi tiếng, đã không thể để đời được bài Lục Bát hay nào trong sự nghiệp thơ của mình. Họ có thử bút, nhưng chỉ làm được những bài “thường thường bậc trung”, chẳng để lại ấn tượng gì, có khi còn thua ca dao bình dân.
Bây giờ nếu Hội Nhà Văn tổ chức một cuộc kiểm tra năng lực thơ của hội viên bằng cách mở một cuộc thi Lục Bát, Hội ra đề, mỗi hội viên thơ làm một bài Lục Bát khoảng 100 câu, tôi dám chắc rất nhiều người phải trả lại thẻ hội viên (!) Không tin, Hội cứ mở một cuộc tỷ thí, giữa thanh thiên bạch nhật, giữa sân đình làng Văn, có thần dân cả nước và quốc tế chứng kiến, chắc là cuộc tỷ thí ấy sẽ vang động khắp năm châu, và người đoạt giải, xứng đáng được khắc bia đặt trong Văn Miếu.
Xin lỗi các nhà thơ, kẻ viết bài này chỉ nói vui thôi, không dám hoài nghi gì về tài năng thơ và sự đóng góp văn chương cuả các vị đâu. Bởi vì chỉ cần làm được một bài thơ hay, không cứ gì Lục Bát, nhà thơ Việt nam đã có đóng góp cho sự nghiệp văn chương của dân tộc rồi. “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên , “Cuộc Chia Ly Màu Đỏ” của Nguyễn Mỹ… là những thí dụ…
2. Lục Bát thương kẻ tài hoa…
Đọc ca dao, đọc truyện Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh), đọc những bài ca vè, và thơ Lục bát của những bậc tài danh, ta nhận ra những khả năng đặc biệt của thể thơ này. Lục Bát có thể miêu tả mọi cảnh ngộ, mọi sinh hoạt, mọi diễn biến đời sống bằng những lời gần gũi tâm sự, những lời thiết tha cồn cào tâm can hay những “tiếng sắt tiếng vàng” binh đao Hán –Sở chiến trường. Lục Bát có thể nói những điều sâu kín trong tâm hồn bằng ngôn ngữ tinh tế, trang trọng cảm động, ngôn ngữ châu ngọc lấp lánh, ngôn ngữ làm thơm tho cả không gian. Lục Bát cũng có thể nói bông đùa mọi chuyện trên đời bằng những lời nôm na, những lời quàng xiên, những lời thô tục, những lời bốc mùi không ngửi được.
Sau khi thất thân với Mã Giám Sinh, Kiều bị Tú Bà xỉ mắng thậm tệ. Ngôn ngữ Lục Bát của Nguyễn Du đọc nghe nổi da gà.
Cớ sao chịu trót một bề
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao
Nguyễn Du tóm tắt cả truyện Kiều chỉ trong một câu mở và một câu kết truyện Kiều với ý nghiã tư tưởng sâu xa.
Trăm năm trong cõi người ta…
… Mua vui cũng được một và trống canh
Bùi Giáng đùa nghịch với ngôn từ. Ông chắp những từ nối (loại hư từ) thường dùng trong văn chính luận để dựng nên một đoạn Lục Bát giàu ý nghiã tư tưởng.
- Nếu và nhưng vẫn ắt rằng
Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế kia
Và nhưng tuy dẫu là chia
Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn
(Tuy nhiên)
Ca dao có nhiều cách diễn tả chân chất nhưng thú vị bất ngờ.
Một tâm trạng yêu:
Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này
(Ca dao)
Một nỗi buồn thương man mác:
Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay
(Ca dao)
Một tình cảnh vất vả, khó xử cuả người phụ nữ nông dân, lúc dậy sớm chuẩn bị cho một ngày lao động:
Đang khi cơm lửa đang nồng
Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem
Bây giờ cơm chín, lợn im
Con thôi đòi bú, tòm tem thì tòm.
(Ca dao)
Và một cuộc rượt đuổi không sao với tới được giữa chàng và nàng trong tình yêu:
Em như cục cứt trôi sông
Anh như con chó chạy rông trên bờ
(Ca dao)
Nhân gian từng truyền tụng những câu thơ hiện đại rất thú vị của Bút Tre như thế này (Tôi không rõ có đúng nguyên văn, hay dân gian có chế biến đi chăng).
Anh đi chiến dịch Pờ - Lây
Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra
Hoặc:
Chị em phụ nữ đánh cầu
Lông bay phần phật trên đầu các cu
Tác giả đã sử dụng kỹ thuật chơi chữ tài hoa trong việc tách âm và ngắt dòng chữ Pờ lây cu (tỉnh Pleiku) và môn thể thao vũ cầu (cầu lông), cùng với kỹ thuật làm méo chữ. Chữ “các cụ” thành “các cu”, do vần gieo Lục Bát phải là vần bằng. Bút Tre lợi dụng ngay cái hiểm hóc của Lục Bát để tạo ra tiếng cười. Dù sự việc được miêu tả là những việc nghiêm trang.
Lục Bát thật dễ làm, nhưng làm được một bài Lục Bát hay thật không đơn giản. Đọc thơ Lục Bát, ta dễ gặp cảm giác này: câu chữ trau chuốt, vần gieo rất chỉnh, âm điệu du dương, nhưng bài thơ cứ trôi tuột đi, ta cố tìm lấy chút gì để nhớ, nhưng đành phụ lòng tác giả mà ngậm ngùi lắc đầu. Có khi ta thấy người viết vất vả quá sức trong từng con chữ, như đánh vật với bằng - trắc, với vần gieo; bị dẫn vào chỗ sơn cùng thuỷ tận để tìm từ; luẩn quẩn mãi không sao làm mới được vần điệu. Câu chữ trúc trắc, gò bó, gượng gạo đến khổ sở. Làm dăm bảy câu Lục bát còn dễ, làm đến vài chục câu đã khó, nhưng để viết được vài trăm câu hay vài ngàn câu Lục bát (Truyện Kiều 3.254 câu; Thiên Nam Ngữ Lục 8.136 câu) thật khó mà tưởng tượng được sự vất vả cuả nhà thơ lớn như thế nào. Người phải vắt kiệt sức lực, vỡ òa tim óc, dốc hết vốn liếng, cày cuốc rũ người trên cánh đồng chữ nghĩa, lục mót từ ngữ, nghiêng ngửa vần gieo, biến tấu nhạc điệu, phối khí bút pháp, gia giảm khẩu vị, lại phải hoá thân bay lên cõi mênh mông của tình ý nhân gian và cõi vô cùng cuả tâm linh ngời ngời ánh sáng (Nguyễn Du từng được coi là người có con mắt nhìn sáu cõi thế gian, tấm lòng thấu suốt nghìn đời). Chưa một thể thơ nào đòi hỏi quyết liệt tài năng, sức lực và tâm huyết nhà thơ đến thế. Không có tài không thể làm được Lục Bát hay.
Lục Bát là thể thơ cuả những nhà thơ tài hoa, những nhà thơ sống mãi với dân tộc.
Cái hay cuả Lục Bát là ở tình ý, lời, kiểu tư duy và ở chính sự tài hoa của cá tính sáng tạo. Đành rằng, ở thể loại nào, thơ cũng đòi những yếu tố ấy, song ở Lục Bát thì “tình ý” phaỉ đi liền với nhau và sự tài hoa là yếu tố quyết định làm nên đặc sắc Lục Bát. Lục bát cuả Nguyễn Bính hội tụ được những yếu tố ấy. Ngày nay, Lỡ Bước Sang Ngang, Cô Hàng Xóm... vẫn làm rung cảm mạnh mẽ tâm hồn người đọc. Thú thực, mỗi lần đọc “Lỡ Bước Sang Ngang” tôi không sao cầm lòng được. Tâm hồn mình cứ rưng rưng. Sự xúc động như tự thâm sâu cuả hồn quê, của hồn người, cuả bản thể Việt. Sự xúc động có chiều sâu nhân văn, chiều sâu văn hóa, và cả chiều sâu tâm thức Việt. Bài thơ “Đan Áo Cho Chồng” của T.T.Kh cũng có cái tình như thế nhưng không có được sự tài hoa. Bài “Gửi T.T.Kh” của Thâm Tâm chỉ có ý, rất ít tình và nghèo nàn sự tài hoa. Nói đến tình ý và tài hoa, thì Nguyễn Bính đã để lại những dấu ấn không thể nhòa trong thơ. Ông mở ra một con đường Lục bát Nguyễn Bính cho nhiều người đi sau.
Lục Bát đương đại, ý có thể sâu, nhưng tình thì rất nhạt và thật hiếm có phong cách tài hoa. Những bài như: “Tâm Sự Nàng Thúy Vân” của Trương Nam Hương, “Nỗi Niềm Thị Nở” của Quang Huy và “Lời Ru Con Của Người Yêu Cũ” của Phạm Ngà, có những nét mới mẻ sáng tạo, tình ý khá hay, nhưng vẫn có chỗ ngượng nghịu thô vụng.
TÂM SỰ NÀNG THÚY VÂN
Nghĩ thương lời chị dặn dò
Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh
Chị yêu lệ chảy đã đành
Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim
Ơ kià sao chị ngồi im
Máu còn biết chảy về tim để hồng
Lấy người yêu chị làm chồng
Đời em thể thắt một vòng oan khiên
Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên
Chị thương kẻ khuất đừng quên người còn
Mấp mô số phận vuông tròn
Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu
Là em nghĩ vậy thôi Kiều
Sánh sao đời chị ba chiều bão giông
Con đò đời chị về không
Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường
Chị nhiều hờn giận yêu thương
Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò
Em chưa được thế bao giờ
Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim
Em thành vợ cuả chàng Kim
Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao
Giấu đầy đêm nỗi khát khao
Kiều ơi, em đợi kiếp nào để yêu ?
(Trương Nam Hương)
NỖI NIỀM THỊ NỞ
Người ta cứ bảo dở hơi
Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi
Dở hơi, nào dở hơi gì
Váy em xắn lệch nhiều khi cũng tình
Làng này khối kẻ sợ anh
Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay
Sợ anh chửi đổng suốt ngày
Chỉ mình em biết anh say rất hiền
Anh không nhà cưả bạc tiền
Không ưa luồn cúi không yên phận nghèo
Cái tên thơ mộng Chí Phèo
Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao
Quần anh ống thấp ống cao
Làm em hồn viá nao nao đêm ngày
Khen cho con tạo khéo tay
Nồi này thì úp vung này chứ sao!
Đêm nay trời ở rất cao
Sương thì đẫm quá, trăng sao lại nhòa
Người ta… mặc kệ người ta
Chỉ em tất thật đàn bà với anh
Thôi rồi, đất lắm tiết trinh
Hồn em nhập bát cháo hành nghìn năm.
(Quang Huy)
LỜI RU CON CỦA NGƯỜI YÊU CŨ
Dừng chân bất chợt, lắng nghe
Tiếng ru mới mẻ gọi về xa xôi
Điệu ru quen thuộc bao đời
Mà xao xuyến, mà bồi hồi tiếng ru
Một thời thân thiết dạo xưa
Người con gái ấy bây giờ ru đây
Tròng trành tiếng gió tiếng mây
Nửa ru bé ngủ nửa lay gọi lòng
Con thuyền nói với dòng sông
Cánh cò nói với mênh mông nắng chiều
Thời gian nói với tình yêu
Buồn vui lại nói những điều buồn vui
Xin đừng ai nữa như tôi
Chuyện không đâu để bùi ngùi tháng năm
Hẳn như cách trở xa xăm
Thì tôi ru khẽ ru thầm cùng em
Ngủ yên cho bé ngủ yên
Và người cha ấy vững bên chiến hào
Qua bao sông rộng núi cao
Tiếng ru dẫu ở nơi nào cũng thương
Chẳng làm con nhện tơ vương
Bao con đường vẫn một đường quanh nôi
Lời ru như lưả bừng soi
Bên nhau ấm những cuộc đời chia xa
Để lòng mãi mãi thiết tha
Để cho ai đó vượt qua chính mình
(Phạm Ngà)
Vô tình, tôi nhặt được ba bài Lục Bát cùng thể hiện những nỗi niềm, những tâm sự, những số phận phụ nữ . Trương Nam Hương làm người đọc giật mình (chữ của Nguyễn Du), vì bấy lâu nay ta đã bỏ quên mất Thúy Vân. Nguyễn Du đã quá chú ý đến Kiều mà hy sinh Thúy Vân, chẳng lẽ người đọc lại vô tình với nàng? Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân là người phúc hậu, nàng được hưởng trọn vẹn hạnh phúc, suốt đời vô tư. Người đọc cũng lầm tưởng như thế. Trái lại, Trương Nam Hương hé mở số phận bi đát cuả Thuý Vân và lên tiếng nói cho nàng. Tiếng kêu thương ấy dường như vang mãi trong vô vọng! Thị Nở cũng là một số phận như vậy. Một con người dở hơi. Dở hơi là vô tư, là không biết nghĩ, không biết buồn và không có nhu cầu sống hạnh phúc? Nhưng Thị là một con người, hơn nưã là một phụ nữ, Thị có quyền sống và khát khao hạnh phúc như mọi người. Tiếc thay, Thị đã bị vùi dập chẳng khác gì Chí Phèo. Quang Huy đã viết được những câu rất hay về Thị, tiếp sức với Nam Cao, trả lại cho Thị chút phận người. Ở bài “Lời Ru Con Cuả Người yêu Cũ”, Phạm Ngà vẽ nên những hình ảnh đẹp mơ hồ về người phụ nữ, về người chồng chiến đấu, về tương lai con trẻ và cái tình riêng của nhân vật trữ tình. Những tưởng ngòi bút Phạm Ngà sẽ đưa người đọc đi mãi vào thế giới lãng mạn cuả tâm hồn, ở đó, mọi giá trị cuộc sống bị vượt qua chỉ còn lại cuộc tình của “cái tôi”. Nhưng kết thúc bài thơ là một câu thật bất ngờ, tuyệt hay về tình ý, sáng lên tiếng nói lương tri. Đó là cái đẹp cần phải có. Câu thơ có sức làm bừng tỉnh người đọc, về cái tôi và cuộc sống xung quanh. Xung quanh ta có bao nhiêu người sống đẹp, ta không thể ích kỷ nhỏ nhoi…
Để lòng mãi mãi thiết tha
Để cho ai đó vượt qua chính mình
3. Lục Bát thế kỷ XX có gì mới?
Đoạn Trường Tân Thanh (truyện Kiều) là đỉnh thi sơn, là ngôi đền thiêng Lục Bát Việt Nam đầu thế kỷ 19. Thế giới ấy, ngôi đền ấy là nghệ thuật, là tâm thức và là tiếng nói Việt. Nguyễn Du với Lục Bát trở thành biểu tượng thành tựu nghệ thuật của dân tộc Việt, trở thành niềm tự hào của một dân tộc giàu lòng nhân ái, vượt lên mọi thăng trầm của lịch sử bằng vẻ đẹp nhân văn sáng trong như ngọc quý.
Thế kỷ XX là thế kỷ cuả bao nhiêu trào lưu phương Tây tràn vào Việt Nam mà nhiều nhà thơ Việt Nam đánh mất mình trong đấy. Bùi Giáng khẳng định: “Chúng ta quen thói ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ” (Thi Ca Tư tưởng).
May thay, Lục Bát Việt Nam vẫn là một cõi trời mênh mông mà những nhà thơ tài hoa Việt Nam tiếp tục toả sáng những sắc màu rực rỡ, mới mẻ, truyền thống và hiện đại.
Đầu thế kỷ XX phải kể đến Tản Đà. Ông có những bài “Phong Dao” thật đặc sắc. Những bài ấy dùng tình ý và ngôn ngữ ca dao để nói những cảm thức mới. Ngòi bút Tản Đà nhuần nhuyễn và tinh tế, lãng mạn và tài hoa đáng kinh ngạc. Tản Đà đã mở ra cách sử dụng chất liệu ca dao để làm thơ Lục Bát mà sau này nhiều nhà thơ kế tục.
Con cò lặn lội bờ ao
Phất phơ đôi giải yếm đào gió bay
Em về giục mẹ cùng thầy
Cắm sào đợi nước biết ngày nào trong?
Con cò lặn lội bờ sông
Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha
Em về giục mẹ cùng cha
Chợ trưa, dưa héo nghĩ mà buồn tênh
(Tuyển tập Tản Đà , nxb Văn Học 1986)
Thề Non Nước là một thành công khác về Lục Bát của Tản Đà. Bài thơ vừa có khí vị cổ điển vừa mở ra chân trời lãng mạn cho thi ca giai đọan sau.
Thơ Lục Bát của những nhà thơ Lãng Mạn (1930-1945) mới mẻ ở “cái tôi” của nhà thơ Tiểu Tư Sản. Ngôn ngữ thơ trau chuốt, đạt đến sự tinh tế hiếm có trong nghệ thuật diễn tả những rung cảm lãng mạn của tâm hồn. Lục Bát Lãng Mạn có chất giọng riêng. Cho đến nay Lục Bát Lãng Mạn vẫn giữ nguyên cái hay mặc dù đã qua trên nửa thế kỷ. Ta có thể nhặt ra nhiều hạt châu ngọc như Ngậm Ngùi (Huy Cận), Thơ Sầu Rụng (Lưu Trọng Lư), Lũy Tre Xanh, Rằm Tháng Giêng (Hồ Dzếnh), Huế Đa Tình (Bích Khê), Bến Hàn Giang (Hàn Mặc Tử), Đan Áo Cho Chồng (T.T.Kh), Gửi T.T.Kh (Thâm Tâm)... Trong bầu trời Lục Bát Lãng Mạn, Nguyễn Bính là một nhà thơ rất mực tài hoa. Chân Quê, Lỡ Bước Sang Ngang, Tương Tư, Người Hàng Xóm… làm xúc động bao nhiêu tâm hồn người đọc.
Giai đọạn kháng chiến chống Pháp. Lục Bát phát triển theo một hướng khác. Văn hóa văn nghệ phục vụ công nông binh. Lục Bát gần với Vè kể chuyện, rất ít chất thơ. Chẳng hạn, Kể Chuyện Vũ Lăng (Anh Thơ), Tình Tháp Mười (Bảo Định Giang)... Thời này, đa số các nhà thơ làm thơ tự do, rồi chen vào câu Lục bát. Bài Ca Vỡ Đất, Bao Giờ Trở Lại (Hoàng Trung Thông), Bầm Ơi, Sáng Tháng Năm (Tố Hữu).
Lục Bát cuả Tố Hữu giai đoạn này (tập thơ Việt Bắc) và cả giai đoạn sau (tập Gió Lộng; Ra Trận; Máu và Hoa, Nước Non Ngàn Dặm) có nét chung này: Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ biểu cảm cuả ca dao, ông đưa vào thơ hình ảnh quần chúng, nói cái giọng quần chúng, nói cái tình kháng chiến, tình công dân. Cái tôi chuyển hoá thành cái ta, thơ ông hướng về quần chúng mà kêu gọi, động viên, chia sẻ. Trong thơ, Tố Hữu hay gọi “ơi”. Lối viết này rất nhiều nhà thơ đi sau ông bắt chước, thậm chí ảnh hưởng đến tư duy cuả cả giai đoạn thơ kháng chiến chống Mỹ ở miền Bắc.
Bầm ơi có rét không bầm
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
(Bầm Ơi - Tố Hữu)
Cháu ơi cháu lớn với bà
Bố mày đi đánh giặc xa chưa về
(Cá Nước - Tố Hữu)
Sáng hè đẹp lắm em ơi
Đầu non cỏ lục mặt trời vưà lên …
… Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa xối xả trắng trời Thưà Thiên
(Nước Non Ngàn Dặm - Tố Hữu)
Thành phố ơi! cám ơn nhjiều
Cho tôi hiểu suốt hai chiều tâm tư
(Bài Thơ Tình Thành Phố - Hoài Anh)
Tôi về xứ Huế mưa sa
Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa
(Nhớ Bạn - Nguyễn Duy)
Anh là thực đấy anh ơi
Trong em sáng một mặt trời thương yêu
(Không Đề - Phan Thị Thanh Nhàn)
Xóa nhòa ảo tích, em ơi
Chỉ còn đọng lại mảnh trời lá xanh
(Lá Nõn - Bửu Khánh Hồ)
Những bài Lục Bát thực sự thành công của Tố Hữu không nhiều. “Việt Bắc” vận dụng được lối giao duyên cuả ca dao, “Kính Gửi Cụ Nguyễn Du” đặc sắc ở nghệ thuật đối thoại với Nguyễn Du về những vấn đề Tố Như gửi gắm trong thơ. “Mẹ Suốt” phát triển thể Vè của ca dao, có phong vị lãng mạn và hơi thơ anh hùng ca. “Luy Lâu” là cảm thức lịch sử về hai bà Trưng, có hơi thơ anh hùng ca. Lục Bát Tố Hữu gần với Ca hơn là Thơ và có nét riêng. Nội dung tuyên truyền Cách Mạng, tình cảm Cách Mạng, tình công dân. Chất liệu là hiện thực cách mạng. Tính hiện đại, tính chính trị, tính quần chúng là phẩm chất chính của Lục Bát Tố Hữu (cũng là của thơ Tố Hữu). Nói cho đúng, Tố Hữu chỉ dùng Lục Bát như một phương tiện chuyển đạt nội dung chính trị, dùng Lục Bát để nói với quần chúng công nông binh, nói tiếng nói công nông binh, bởi vì Lục bát hòa thanh dễ lọt tai, dễ nhớ, dễ thuộc. Ông không sáng tác những bài thơ Lục Bát nghệ thuật. Tuy vậy, những bài Lục Bát của Tố Hữu có những đóng góp nhất định vào sự phát triển cuả thơ Lục Bát thế kỷ XX.
… Trường sơn, xẻ dọc, rọc ngang
Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng
Trường sơn, vượt núi, băng sông
Xe đi trăm ngả chiến công bốn muà
Trường sơn, đông nắng, tây mưa
Ai chưa đến đó, như chưa rõ mình..
(Nước Non Ngàn dặm – Tố Hữu)
Con sông Dâu chảy về đâu
Mà lơ thơ… đến Luy Lâu lại dừng
Cho ta nhớ thuở bà Trưng
Chiến thuyền giấu bến, cây rừng giấu binh
Luy Lâu ngạo nghễ cung đình
Tàn canh tiệc rượu… Giật mình sấm ran
Bốn bề nổi lửa Văn Quan
Ba quân gươm giáo ngập tràn thành đô
Chém đầu Tô Định, giặc Ngô
Xác phơi, chín chín đống mồ cỏ hôi
Hai nghìn năm cũ qua rồi
Sông Dâu nay đã cát bồi dòng xưa
Luy lâu còn đó… gió mưa
Vẫn nghe phần phật ngọn cờ Trưng Vương
(Tố Hữu-15.10.1986 – báo Văn Nghệ số 3-4 . 1987)
Lục bát những năm trước và sau 1975 phát triển theo hai hướng: tiếp tục khai thác chất liệu ca dao , thể hiện những tình tự dân tộc theo hướng Nguyễn Bính, hoặc phản ánh đời sống, hướng về quần chúng, nói tiếng quần chúng, nói tình ý công dân, theo hướng của Tố Hữu.
LỖI HẸN CÙNG CA DAO
Vườn nay người khác đã rào
Khóm mai thay chỗ khóm đào ngày xưa
Em ngồi giặt áo giưã trưa
Đâu rồi môi hát vu vơ một mình?
Em ngồi giặt áo lặng thinh
Vò cho sạch những vết tình còn vương
Giũ cho vơi hết giọt buồn
Phơi cho khô hết nhớ thương xa vời…
Đàn Kiều được mấy khúc vui
Thơ Kiều có vận vào đời em chăng?
Tình so chưa đủ ngũ âm
Áo chồng con đã nặng oằn dây phơi
Áo ca dao gió cuốn rồi
Câu ca dao, trả cho người khác qua…
Tóc mai rủ bóng hiên nhà
Chuyện xưa dù nhắc vẫn là chuyện xưa
Em ngồi giặt áo giưã trưa
Rát bàn tay vẫn vò chưa sạch lòng
(Thanh Nguyên)
LỜI RU ĐỒNG ĐỘI
Ngủ đi bạn, ngủ đi anh
Cánh tay mình ngả ra thành gối êm
Ngủ đi bạn, ngủ đi em
Ngủ ngon giấc ngủ gối lên tay mình
Hiếm hoi cái giấc yên lành
Hành quân xa, lại tiếp hành quân xa
Bao anh lính trẻ đã già
Chưa sang hết suối, chưa qua hết rừng
Ngủ hầm, ngũ võng, ngủ bưng
Gối đầu tay ngủ cầm chừng mỗi đêm
Có người ngủ thế thành quen
Đã nghe sợi tóc bạc trên tay mình
Trong hầm biên giới Tây Ninh
Lặng yên mình ngắm lính mình ngủ yên
Bụi đường trắng tóc thanh niên
Má này thì lại áp lên tay này
Trái tim đập ở cổ tay
Tim ta ru giấc ngủ đầy cho ta
Cánh tay cặp khẩu A.K
Ngày là bệ súng, đêm là gối êm
Ngủ đi anh, ngủ đi em
Ngủ ngon giấc ngủ gối lên tay mình
(Nguyễn Duy. 8-6-1978)
Lục bát của Hoàng Cầm (Gọi Đôi, Giả Vờ...) tuy tình ý không nồng nàn như Nguyễn Bính song có được những tứ thơ lạ, cùng với nét tài hoa vốn có trong thơ của ông. Trần Mai Ninh là một khuôn mặt thơ mạnh mẽ, gân guốc và rất lạ. Thơ Lục Bát cuả ông cũng có được nét ấy (Lời Nương Theo Lòng Nắng Gió, Chờ Lửa, Nhịp Muôn Đời (1) ) Có người ca ngợi Lục bát Đồng Đức Bốn. Thực ra Đồng Đức Bốn đi con đường Nguyễn Bính đã vạch ra (bài Hoa Dong Riềng, Nhà Quê, Chờ Đợi Tháng Ba…). Nhưng Đồng Đức Bốn không có cái tài hoa cuả Nguyễn Bính, mà có cái sức của một anh lực điền, cố sức cày sâu cuốc bẫm, cũng nhặt được hạt rơi hạt rụng. Bài sau đây chưa thành thơ Lục Bát.
Cuối cùng nếu phải ra đi
Em xin gửi lại những gì cho anh
Anh dặn em bấy nhiêu lời
Khi mang xuống mộ cùng người tri âm
Anh tặng em quả chuông chùa
Khi ba tiếng mở thì mưa bỗng rào…
(Kính gửi anh Điềm - Đồng Đức Bốn)
Ở miền Nam, Phạm Thiên Thư tiếp bước Nguyễn Du bằng Lục bát sang trọng, ngôn ngữ trong veo. Lục Bát cuả Phạm Thiên Thư đạt tới sự hòa điệu cuả tiếng Việt giản dị, tính tư tưởng của Thiền và chất trí tuệ cổ điển phương Đông. Hồn thơ Phạm Thiên Thư thật tinh khôi.
… Đôi uyên ương trắng bay rồi
Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông
Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng
Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu
(Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng - Phạm Thiên Thư)
Bùi Giáng làm mới Lục bát bằng chữ nghĩa trùng trùng điệp điệp, bằng sự đan cài từ Hán Việt và thuần Việt, bằng tài hoa rất mực trong những lời cợt đùa như con trẻ, nói chuyện không đâu mà thành tư tưởng. Thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng. Kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều nhà thơ khác ở miền Nam đương thời.
Chào em? có lẽ chẳng nên
Nói gì nữa cả? giữa đêm tối mò!
Chào em tính mệnh so đo?
Chào em tính thể tò mò tuyết vân?
Ấy xa xôi? ấy gũi gần?
Từ từ tự hỏi, tần ngần thấy ra
Đi về trong cõi người ta
Người là người lạ, ta là quá quen?
Anh từ thể dục dưỡng điên
Thành thân thơ mộng thiên nhiên một giờ
(Chào Em - Bùi Giáng)
Du Tử Lê thử nghiệm cách tân Lục Bát, bằng cách dùng nhịp lẻ, nhịp chỏi, ngắt câu, xuống hàng, dùng dấu phẩy (,), dấu gạch nghiêng (slash). Du Tử Lê cũng có những bài Lục Bát thành công như Chân Dung, Cõi Tôi, song với lối cách tân ấy, Du Tử Lê đã băm nát nhịp thơ, làm bầm dập Thi thể, Lục Bát thành ngọng nghịu quá đỗi.
thắp thêm nến. Gọi vai về
dấu môi Bồ Tát, lá, lìa Austin
biển lần theo chân Quán Âm
ngón tay tràng hạt, nhang, đèn, phố, lu
tóc thơm ngực, múi khuya, mù
trái vun ấn tượng; nẫu lìa, biệt đen.
thắp thêm nến. Giới định, thiền
giải oan chuông, mõ; xóa kinh điển, người
gửi thêm đời, muộn, chút tôi
rớt trên lục tự; rũ ngoài tam quan.
thắp thêm nến. Nhiễu tâm phiền
gió, thâm, tím ngọn, cây tiền thân, mưa.
(Khúc Tháng Hai, Chín Sáu – Du Tử Lê)
Lục Bát hay là ở nhịp điệu tự nhiên như hơi thở, như lời nói. Nhạc cuả Lục Bát là nhạc của tiếng Việt đa thanh mượt mà, với rất nhiều từ láy, từ ghép. Nhạc của Lục Bát là nhạc cuả tâm hồn Việt, bình dị nhưng cao vời. Nhạc cuả Lục bát là nhạc của hình tượng, không phải nhạc của kỹ thuật dấu phẩy (,). Xin thử lắng nghe câu thơ Kiều:
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm
(Nguyễn Du)
Giai điệu vút lên, liền mạch, bay bổng, xa thẳm trời xanh muôn trùng, không thể là nhịp chỏi, nhịp lẻ. Nhạc thơ ấy không thể dùng dấu phẩy mà ngắt ra. Bởi nếu chặt khúc câu thơ, cánh hồng sẽ gẫy và con chim hồng tuyệt vời ấy sẽ rơi xuống đất, chết cùng với Lục bát. Cũng vậy con mắt đăm đăm là con mắt nhìn mãi về xa xăm, làm sao cắt khúc được sự dõi theo không cùng ấy của tâm thức?
Có những cách làm mới Lục Bát bằng thơ ngắt dòng, thơ bậc thang. Nhưng đó chỉ là mới cái dáng vẻ câu thơ, không tạo ra được cái mới nghệ thuật cho Lục Bát.
LỤC BÁT Ở ĐÈO NGANG
Dập dềnh bóng núi. Đèo Ngang
Mình ta
Với nỗi buồn vàng
Trong tay.
Đường xa
Chim mỏi cánh bay
Chở theo
Một khối tình đầy
Long đong
Qua vùng nước trắng mênh mông
Tàu trôi
Ta cũng bồng bềnh trôi theo
Bướm non tơ
Khóc trong chiều
Vẫy tay
Gửi một lời yêu
Lỡ làng
Thôi thì thôi
Nỗi buồn vàng
Thả ta xuống đỉnh trời hoang
Một mình..
(Phạm Thị Ngọc Liên -19-10-1990)
VIẾT TRONG QUÁN CÀ PHÊ
Ly cà phê nửa
tỉnh
mê
Từng đôi sớm biết đi về có nhau
Còn em
lãng đãng đi đâu
Anh về
so sẫm
đũa màu
gỗ mun
Chơ vơ riêng chiếc bữa thường
Qua phin hồng hạnh
giọt buồn lọc mau
Ai nhường nửa giọt chung màu
Cho tôi tỉnh táo khuấy sầu
tan chăng
(Hoàng Cầm – 1992)
Gần đây, Trần Ngọc Tuấn viết Lục Bát Tứ Tuyệt với tư tưởng Thiền. Đó là một chọn lưạ không dễ dàng chút nào. Tứ Tuyệt có độ nén rất cao. Ca dao lại vút đi rất nhanh trong sự phát triển tứ thơ. Và không dễ để chuyển hoá tư tưởng Thiền thành một tứ thơ vừa thanh thoát mượt mà Lục Bát vừa uyên bác trí tuệ Tứ Tuyệt. “Qua Dốc Sương Mùa” của Trần Ngọc Tuấn là một thành công bước đầu.
Gánh củi qua dốc sương mù
Mồ hôi giọt giọt, gió ù ù bay
Nghìn tia nắng dệt trang ngày
Bước chân hoan hỉ, đêm này lửa reo
(tập thơ Suối Reo – Nxb Hội Nhà Văn 2006)
Những nhà thơ trẻ như Nguyễn Việt Chiến (Tiếng Trăng, Cát Đợi...), Nguyễn Thế Hoàng Linh (Bến, Khẩu Vị, Chuyển Hoa, Tinh Mơ...) có chạm đến Lục Bát, nhưng hồn thơ chưa định hình.
TRẢI CHIẾU NGẮM TRĂNG
cụ bà trải chiếu giữa sân
cụ ông đập đập hai chân vào ngồi
chán ghê hết thuốc lào rồi
trưa vừa rào lại đấy thôi quên à
tôi bảo hết thuốc lào mà
vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông
điếc rồi thế có chán không
giờ này còn định ra sông tắm trời
ông đúng là đồ dở hơi
dở hơi mà lại biết bơi đấy bà
ông bảo gì mà cháy nhà
phỉ phui cái miệng không là chết oan
(Nguyễn Thế Hoàng Linh 16.06.07)
4. Ai đã đặt chân vào đền thiêng Lục bát?
Người ngồi trong đền phải là nhà thơ mà Lục bát là sự chọn lưạ cho sự nghiệp của mình, phải có được nhiều bài Lục bát hay, phải có những đóng góp làm phát triển Lục Bát. Và nhất là phải viết được những trường ca Lục Bát có giá trị. Chính trường ca Lục Bát khẳng định tài năng cuả nhà thơ. Những nhà thơ chỉ tạt ngang hoặc chợt rẽ vào Lục Bát, vốn sống và vốn từ nghèo nàn, sẽ chết yểu trên đường tìm vần, sẽ chẳng đủ tình, đủ ý, đủ hơi sức sáng tạo trên con đường càng đi càng dẫn đến tuyệt lộ.
Nguyễn Du là người giữ đền, không phải là người xây đền, vì trước Nguyễn Du, Thiên Nam Ngữ Lục đã là một toà nhà đồ sộ (8.136 câu Lục Bát). Nguyễn Du làm cho Lục Bát trở thành đền thiêng của thi ca dân tộc.
Tiếp theo, Nguyễn Bính là người bước chân vào đền và ngồi chiếu trên, vì ông có riêng một góc trời Lục Bát không bị Nguyễn Du che lấp. Tất nhiên Lục Bát Nguyễn Bính không thể sánh được với Lục Bát Đoạn Trường Tân Thanh.
Tố Hữu ngồi ở một chiếu khác, Lục Bát của Tố Hữu chuyên chở được đời sống hiện đại, đời sống dân tộc trong kháng chiến (Việt Bắc, Nước Non Ngàn Dặm, Mẹ Suốt...). Điều mà Nguyễn Du đã không làm được trong thời đại của ông. Lục bát Nguyễn Du không chuyên chở được những biến đổi bể dâu thời Lê-Trịnh-Gia Long, không ghi lại được những trang hào hùng của dân tộc khi Nguyễn Huệ phá tan quân Thanh năm 1789.
Người ngồi ngang hàng với Nguyễn Du là Phạm Thiên Thư. Ông đã viết 20.000 câu Lục Bát. “Đoạn Trường Vô Thanh” của ông dài hơn truyện Kiều của Nguyễn Du 20 câu. “Đưa Em Tìm động Hoa Vàng” là một trong những bài Lục bát tình hiện đại tuyệt hay. Phạm Thiên Thư sáng tác bằng vô thức, cõi vô thức đã đạt tới bước đại ngộ cuả Thiền.
Bùi Giáng là người phá đền và xây mới bằng những câu Lục Bát nghịch ngợm tài hoa, như không thể nghịch ngợm tài hoa hơn.
Còn ai nữa đã bước vào đền, xin bạn đọc bổ khuyết cho…
Lục Bát là cõi trời mênh mông của thi ca dân tộc. Trong thế kỷ XXI ai sẽ là người bước vào ngôi đền thiêng ấy? Ai sẽ khai mở được những lối đi mới vào đền? Tôi chưa thấy được bóng dáng nhà thơ trẻ nào hôm nay chuẩn bị cho hành trình bay vào cõi trời mênh mông ấy.
Bùi Công Thuấn
Hội viên Hội VHNT Đồng Nai
Email: buicongthuan2401ks@yahoo.com