Thứ tư, 01/05/2024,


“Tư Hữu Ngâm” – Bài thơ Lục bát chữ Hán độc đáo của cụ Phan Bội Châu (14/10/2008) 

     Bài “Tư Hữu Ngâm” của cụ Phan Bội Châu được chép trong tập “Di cảo” của cụ, mà năm 1961 bà Nguyễn Thị Phúc là người con dâu cả của cụ (bà Phúc là vợ hai ông Phan Huynh) giao cho nhóm biên tập cuốn “Thơ Phú Câu đối chữ Hán Phan Bội Châu” (do nhà XB Văn Học in năm 1975). Bài thơ này có ghi rõ: “Giải nguyên Phan Hải Thụ ký Bắc kỳ Nguyễn Quý Hữu”. Theo ông Tôn Quang Phiệt (một người trong nhóm biên tập cuốn sách trên) thì Nguyễn Quý Hữu ở đây có thể là Nguyễn Thượng Hiền, người mà Phan Bội Châu đã gặp ở Huế những năm 1897-1898 và 1901 – 1904.

 

     Bài thơ 'Tư Hữu Ngâm' được viết bằng chữ Hán theo ngữ pháp Hán Văn, nhưng lại theo vần luật của thơ Lục bát và Song thất Lục bát. (Nói vậy vì bài thơ không hoàn toàn làm theo thể Lục bát mà còn có những cặp câu 7 chữ gieo vần theo thể Song thất Lục bát, nhưng cũng không hoàn toàn là thơ Song thất Lục bát vì cứ 1 cặp câu Thất lại có tới 4 câu Lục bát chứ không phải 2 câu Lục bát). Tuy vậy có thể thấy phần lớn số câu thơ vẫn được cụ Phan Bội Châu viết theo lối Lục bát.

 

     Thơ lục bát chữ Hán có thể nói là một thể thơ khá đặc biệt dùng thể thơ thuần Việt viết cho chữ Hán và ngữ pháp Hán văn. Trước đây có thể có không ít bài thơ được các bậc tiền nhân viết theo thể thức này, nhưng bài thơ Tư Hữu Ngâm của cụ Phan Bội Châu vẫn là một bài thơ độc đáo và đặc sắc. Xin giới thiệu nguyên văn và bản dịch thơ của cụ Nguyễn Văn Bách, có in trong cuốn “Thơ Phú Câu đối chữ Hán Phan Bội Châu” do nhà XB Văn Học in năm 1975. (Chúng tôi có sửa lại một số chữ Hán và cách phiên âm cho chính xác)

 

Bản chữ Hán

Phiên âm

 

(山意衝寒欲放梅)

 

梅放早春來不再;

酌三杯醉待君侯。

雲山一枕床頭;

歸來蝶夢相求相遊。

徘徊月夜同孤;

三更想像江湖散人。

窗前望疑君忽到;

僕門迎空報旌旗。

院深此景共誰;

虫鳴聲唱聲隨東園。

燈挑盡未成眠;

青山回首鳴鞭夢頻。

帳中望疑君至止;

弟簾披說未聞車。

金樽長對燈花;

聊吟吟盡復歌歌殘。

更深滴漏天寒,

巴山噉虎四寰如聞。

宵四鼓望君君睡;

臥殘釭如醉如癡。

東牆折數梅枝;

些間花草同知心否?

同舟欲繫蘇舟;

書齋寂寂几頭殷殷。

宵五鼓望君君起;

倚螢窗而醉而醒。

鄰家嚮嚮雞聲;

夫敲村鐸農行山簫。

庭前求燎高燒;

筆花再訂題橋相如。

君知未蓬閭蓽戶;

幾縈情九五龍飛。

人人向日傾葵;

橫奔一鹿手誰相爭。

眼前如此蒼生;

經綸猶待河清幾時?

君不見勤劬書籍,

步青雲將摘桂花。

然而瓊地胡家;

松碑梅榜魁科也曾。

而今奮翅揚鷹;

聲聞四海名騰九州。

君不見春秋未幾;

樂何如濃李夭桃。

然而男子是豪;

張園昨日情交謂何?

如今同日遊俄;

賦吟萬里詩歌九重。

君知未孤忠自許;

路雲深向與誰言?

消愁勸盡一樽;

恨將隻手乾坤縱橫。

懷君終盡天更;

冬花繚繞溪聲疾徐。

君母日倚閭遙望;

余子行水宋山吳。

君王錦帳知不;

經秋柳陌梅衢間關。

何年歌奏凱還,

斑衣常寄承歡夢頻。

君父日倚門賒顧;

余子行晉路齊郊。

無衣誰與同袍?

崎嶇鳥道波濤海濱。

何年三捷報頻,

故鄉冠蓋酬恩生成。

筆花寫君情如是;

腑懷中我意難描。

片誠暮暮朝朝;

雲飛相似風飄半形。

化工何善余生;

一身提擔兩京山河。

望不見筆花聊贈;

幅書中味勝芝蘭。

君侯几案閒看;

知心二字去還書紳。

今朝日靄花欣;

輕輕玉趾梅鄰敘情。

相知勿論品評﹗

 

 

TƯ HỮU NGÂM

(Sơn ý xung hàn dục phóng mai)

 

Mai phóng tảo xuân lai bất tái;

Chước tam bôi túy đãi quân hầu.

Vân sơn nhất chẩm sàng đầu,

Quy lai điệp mộng tương cầu tương du.

Bồi hồi nguyệt dạ đồng cô,

Tam oanh tưởng tượng giang hồ tản nhân.

Song tiền vọng nghi quân hốt đáo,

Bộc môn nghênh không báo tinh kỳ,

Viện thâm thử cảnh cộng thùy,

Trùng minh thanh xướng thanh tùy đông viên.

Đăng khiêu tận, vị thành miên.

Thanh sơn hồi thủ minh tiên mộng tần.

Trướng trung vọng nghi quân chí chỉ,

Đệ liêm phi thuyết vị văn xa.

Kim tôn trường đối đăng hoa,

Liêu ngâm ngâm tận, phục ca ca tàn.

Canh thâm trích lậu thiên hàn,

Ba sơn hám hổ tứ hoàn như văn.

Tiêu tứ cổ vọng quân quân thụy,

Ngọa tàn cang như túy như si.

Đông tường chiết sổ mai chi,

Ta gian hoa thảo đồng tri tâm phầu?

Đồng châu dục hệ Tô châu,

Thư trai tịch tịch, kỷ đầu ân ân.

Tiêu ngũ cổ vọng quân quân khỉ (khởi)

Ỷ huỳnh song nhi túy nhi tinh.

Lân gia hưởng hưởng kê thanh,

Phu xao thôn đạc, nông hành sơn tiêu.

Đình tiền cầu liệu cao thiêu,

Bút hoa tái đính đề kiều Tương Như.

Quân tri vị, bồng lư tất hộ

Kỷ oanh tình cửu ngũ long phi.

Nhân nhân hướng nhật khuynh quỳ,

Hoành bôn nhất lộc thủ thùy tương tranh.

Nhãn tiền như thử thương sinh,

Kinh luân do đãi hà thanh kỷ thì?

Quân bất kiến cần cù thư tịch,

Bộ thanh vân tương trích quế hoa.

Nhiên nhi Quỳnh địa Hồ gia,

Tùng bi mai bảng khôi khoa dã tằng.

Như kim phấn xí dương ưng,

Thanh văn tứ hải, danh đằng cửu châu.

Quân bất kiến xuân thâu (thu) vị kỷ,

Lạc hà như nùng lý yêu đào.

Nhiên nhi nam tử thị hào,

Trương Viên tạc nhật tình giao vị hà.

Như kim đồng nhật du Nga,

Phú ngâm vạn lý, thi ca cửu trùng.

Quân tri vị cô trung tự hứa,

Lộ vân thâm hướng dữ thùy ngôn?

Tiêu sầu khuyến tận nhất tôn,

Hận tương chích thủ càn khôn tung hoành.

Hoài quân chung tận thiên canh,

Đông hoa liêu nhiễu, khê thanh tật từ.

Quân mẫu nhật ỷ lư dao vọng,

Dư tử hành thủy Tống sơn Ngô.

Quân vương cẩm trướng tri phù,

Kinh thu liễu mạch mai cù gian quan.

Hà niên ca tấu khải hoàn,

Ban y thường ký, thừa hoan mộng tần.

Quân phụ nhật ỷ môn xa cố,

Dư tử hành Tấn lộ, Tề giao.

Vô y thùy dữ đồng bào,

Kỳ khu điểu đạo, ba đào hải tân.

Hà niên tam tiệp báo tần,

Cố hương quan cái thù ân sinh thành.

Bút hoa tả quân tình như thị,

Phủ hoài trung ngã ý nan miêu.

Phiến thành mộ mộ triêu triêu.

Vân phi tương tự, phong phiêu bán hình.

Hóa công hà thiện dư sinh,

Nhất thân đề đảm lưỡng kinh sơn hà.

Vọng bất kiến bút hoa liêu tặng,

Bức thư trung vị thắng chi lan.

Quân hầu kỷ án nhàn khan,

Tri tâm nhị tự khứ hoàn thư thân.

Kim triêu nhật ái hoa hân,

Khinh khinh ngọc chỉ mai lân tự tình.

Tương tri vật luận phẩm bình.

 

(Trước 1905)

 

 

 

Bản dịch nghĩa của Châu Hải Đường:

 

KHÚC NGÂM NHỚ BẠN

 

(Núi tuôn khí lạnh giục mai trổ bông)

 

Hoa mai nở sớm, nhưng xuân đi không trở lại;

Rót ba chén rượu say đợi bậc quân hầu (tiếng tôn xưng người đối diện)

Xưa ở Vân Sơn từng nằm chung gối;

Khi trở về trong giấc mộng còn thấy như thường qua chơi với nhau.

Đêm trăng sáng bồi hồi cùng cô đơn như nhau,

Suốt ba canh tưởng nhớ đến anh – con người giang hồ nhàn tản.

Ngóng trước cửa sổ ngỡ anh chợt đến,

Người nhà ra cửa đón chỉ báo không thấy bóng cờ đâu.

Sân khuya cảnh này biết chia sẻ cùng ai,

Tiếng côn trùng kêu như xướng họa cùng nhau bên vườn đông.

Đèn khêu đã cạn mà không ngủ được,

Ngoảnh nhìn núi xanh thường mơ được nghe tiếng roi ngựa anh đến.

Trong màn ngóng ra, ngỡ anh đã đến rồi,

Học trò ra vén rèm lại vào bảo chưa nghe tiếng xe.

Chén vàng cứ để mãi trước ngọn đèn hoa.

Thơ ngâm đã ngâm hết, lại hát thì cũng đã hát cạn lời.

Đêm khuya giọt đồng hồ điểm trời lạnh giá,

Tiếng hổ gào ngoài núi Ba Sơn như vang vọng bốn bên.

Trống canh tư ngóng anh chắc anh đương ngủ,

Nằm với ngọn đèn tàn như say như dại.

Bên tường đông hái mấy cành mai,

Cỏ hoa ấy biết có hiểu nỗi lòng mình?

Mong được cùng thuyền, để được bơi con thuyền của Tô Đông Pha,

Chỉ thấy phòng sách tịch mịch, bàn viết im lìm.

Trống canh năm ngóng anh, chắc anh vừa dậy,

Tựa trước song huỳnh như dở tỉnh dở say.

Nhà hàng xóm đã vẳng mấy tiếng gà.

Phu tuần đã gõ mõ trong thôn, nông dân cũng thổi sáo lên núi.

Trước sân cây đuốc đốt cao,

Bút hoa lại sửa câu Tư Mã Tương Như ngày xưa đề trên cầu.

Anh biết chăng, nơi cửa gai nhà cỏ,

Bao người cũng mong mỏi được đến chốn bệ rồng.

Người người đều như hoa hướng dương ngoảnh về mặt trời,

Mà một con hươu chạy biết về tay ai được.

Cuộc sống của người dân trước mắt nhìn như vậy,

Tài kinh luân đợi đến lúc thanh bình thì biết bao giờ?

Anh chẳng thấy việc dùi mài sách vở,

Bước lên đường mây mà hái cành hoa quế.

Như nhà họ Hồ ở đất Quỳnh Lưu kia,

Bia đá bảng vàng đã từng khôi khoa đỗ đạt.

Mà nay cũng vươn cánh chim ưng,

Tiếng tăm vang ngoài bốn bể, danh tiếng lẫy lừng trong chín châu.

Anh chẳng thấy xuân thu là mấy chốc,

Vui gì như cảnh mận tốt đào tơ.

Song le đấng nam nhi là bậc anh hào,

Trương Viên ngày trước vốn là chỗ thâm tình thế nào.

Ngày nay họ cùng ngày đều đi sang nước Nga ,

Phú ngâm ngoài vạn lý, thơ ca khúc cửu trùng.

Anh biết chăng, niềm cô trung tự nhủ,

Đường mây xa cách biết ngỏ cùng ai.

Bớt nỗi sầu, mời cạn một chén này,

Hận khó đem một cánh tay mà tung hoành trong trời đất.

Nhớ anh ngồi trọn hết năm canh chày,

Hoa mùa đông quanh quất, tiếng suối vang khi chậm khi nhanh.

Mẹ anh hàng ngày tựa cổng nhìn xa,

Nghĩ con ta đang đi nơi nước Tống non Ngô nào,

Bậc quân vương trong trướng gấm có biết không,

Trải năm xa cách chốn đường mai dặm liễu.

Năm nào mới ca khúc khải hoàn,

Để lại mặc áo màu múa hát (như Lão Lai tử) cho cha mẹ vui lòng?

Cha anh ngày ngày tựa cửa trông về nơi xa tít,

Nghĩ con ta đang đi nơi đường Tấn, cõi Tề nào,

Ví không áo biết có ai cùng chia sẻ? (như bài thơ Vô Y trong kinh Thi)

Đường núi thì gập ghềnh, đường biển thì sóng gió

Biết năm nào mới có tin chiến thắng dập dồn,

Để đội mũ, đi lọng về quê báo ơn sinh thành của cha mẹ?

Bút hoa tôi viết lên nỗi lòng anh như vậy,

Còn ý nghĩ trong lòng tôi thực khó vẽ ra.

Tấc lòng thành sớm sớm chiều chiều,

Thấy mây bay cũng tương tự bóng anh, gió thổi cũng như hình anh.

Ông trời sao lại ưu ái riêng mình,

Một thân mà gánh vác núi sông hai kinh.

Trông anh mà không gặp, vung bút hoa viết mấy câu lưu tặng,

Ý vị trong thư, hơn cả hương vị cỏ chi cỏ lan.

Quân hầu hãy để trên bàn sách, khi nhàn tản thì xem chơi,

Hai chữ “tri tâm” qua lại hãy ghi vào vạt áo.

Sớm nay ngày đẹp hoa tươi,

Nhẹ dời gót ngọc đến bên mai tỏ tấm tình.

Đã biết nhau, xin chớ phẩm bình hay dở.

 

***

 

 

Dịch thơ của  cụ Nguyễn Văn Bách

 

Mai nở sớm xuân không trở lại,

Rượu ba ly chuốc đợi quân hầu.

Vân Sơn chung giấc gối đầu,

Khi về hồn mộng bên nhau vẫn gần.

Một mình thơ thẩn dưới trăng,

Ba canh tưởng thấy cố nhân bên mình.

Ngó trước song ngỡ anh vừa tới,

Vội đón mừng trông với thấy đâu.

Cùng ai giải muộn đêm thâu,

Vườn đông eo óc tiếng sâu não nùng.

Đèn tàn chưa nhắp giấc nồng,

Non xanh ngoảnh lại những hòng trở roi.

Trong trướng đợi ngỡ người tới đó,

Vén rèm trông nào có bóng xe.

Chén vàng trước ngọc đèn hoa,

Thơ ngâm hết ý, khúc ca cạn lời.

Lạnh lùng đêm vắng canh dài,

Non Ba hổ thét quang nơi rợn mình.

Trống canh tư trông anh, anh ngủ,

Bên đèn tàn mờ tỏ mơ say.

Tường đông bẻ mấy nhành mai,

Cỏ hoa có thấu lòng người chăng ru?

Cùng nhau mong dạo thuyền Tô,

Phòng văn vắng ngắt, án thư lặng tờ.

Trống canh năm anh vừa trọn giấc,

Tựa song huỳnh ngây ngất tỉnh say.

Tiếng gà gáy rộn đông tây,

Thôn vang mõ sớm, non đầy sáo mai.

Trước sân soi đuốc rạng ngời,

Đề cầu nuôi chí nối lời Tương Như.

Anh có thấy phên thưa mái cỏ,

Cũng nặng tình hội ngộ rồng mây.

Người người như hướng bóng quỳ,

Hươu kia tranh chấp biết về tay ai.

Dân đen đương lúc ngập vùi,

Kinh luân đâu nỡ đợi thời lặng trong.

Anh có biết bao công kinh sử,

Bước thang mây bẻ quế cung nga.

Quỳnh Lưu tài tử họ Hồ,

Bảng mai bia đá khôi khoa đã từng.

Ngày nay tung cánh chim ưng,

Tiếng vang bốn bể, danh lừng chín châu.

Anh có biết xuân thâu đương độ,

Sân lý đào vui thuở đượm nồng.

Song le nam tử hào hùng,

Trương Viên thuở nọ, tình chung đậm đà.

Ngày nay cùng trở sang Nga,

Phú ngân muôn dặm, thơ ca chín trùng.

Anh nặng chữ cô trung gắn bó,

Nẻo xa mờ biết ngỏ cùng ai.

Giải sầu rót một chén mời,

Xắn tay muốn kéo đất trời dọc ngang.

Nhớ anh canh đã hầu tàn,

Hoa đông héo hắt, khe tràn đầy vơi.

Mẹ tựa cửa xa vời mong ngóng,

Con ta đi nước Tống, non Ngô.

Quân vương có thấu chăng chưa,

Trải năm liễu mạch mai cù cách ngăn.

Bao giờ hát khúc khải hoàn,

Ban y vui buổi thừa hoan cam lòng.

Cha tựa cửa đoán trông xa tận,

Con ta đi nước Tấn cõi Tề,

Cùng ai tình nghĩa chở che,

Biển khơi sóng gió, núi khe gập ghềnh.

Bao giờ báo tiệp tin gần,

Xênh xang mũ áo đền ân sinh thành.

Bút hoa giãi tình anh nhường đó,

Chút lòng riêng khôn ngỏ hết lời.

Nhớ người đã sớm thôi mai,

Gió lay ngỡ bóng, mây trôi tưởng hình.

Hoá công khéo phú cho mình,

Một thân gánh vác hai kinh sơn hà.

Mong chẳng gặp bút hoa chút tặng,

Vị trong thư hơn hẳn chi lan.

Gửi người trước án xem tường,

Thấu lòng ghi tạc đá vàng hôm mai.

Sớm nay trời đẹp hoa tươi.

Xin đưa gót ngọc, xóm mai tự tình.

Lời quê xin miễn phẩm bình!

 

Châu Hải Đường - Thủy Hướng Dương

(Sưu tầm và biên soạn)

 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
Các bài khác: