Lục bát - một thể thơ giản dị, chân phương, nhạc tính hiền từ, màu thơ nâu sồng, đất cát… Ấy vậy mà lạ, cái mình mẩy mộc mạc ấy lại vừa vặn giao hòa với tất cả: từ tinh thần khâm nghiêm của cổ đến táo bạo của kim; từ dịu dàng lời ru đến tưng tửng u-mặc (humour); từ mộc mạc ca dao đến hàn lâm minh triết; từ trữ tình ướt át đến nghịch ngợm trào phúng… Vừa tất! Thế mới lạ, thế mới khiến mấy anh chàng “hậu hiện đại” đao to búa lớn phải nể vì. Thế mới khiến cụ Bùi Giáng tay chống gậy siêu việt trí, miệng khề khà lời vô ngôn vẫn cứ thích ngã kềnh trong manh chiếu quê rộng ngang 6 - 8. Vì thế, Lục bát sẽ vẫn sống mãi bất chấp mọi đổi thay, như đại lượng bất định “Còn” trong câu thơ của cụ Bùi: “Người còn thì của hãy còn / Người không còn nữa thì còn cái chi”.
Đôi lần được ngồi chuyện trò cùng nhà thơ Văn Công Hùng, trong câu chuyện, thảng hoặc anh lại trầm ngâm kể về quê hương với một nỗi niềm đau đáu. Có lẽ, với riêng anh “đi đến” cùng nghĩa với “tìm về”. Cũng đúng thôi, ai chẳng mang di tích tuổi thơ. Thật may mắn cho người nào khi trên đầu mây trắng bay mà vẫn còn đó bến đò cũ - để dừng chân hồi cố, vẫn còn nguyên giậu dâm bụt xưa - để hoài niệm tựa đầu. Nhưng thường thì chẳng mấy ai được thế. Thời gian làm bạc phếch những kỷ niệm, bê-tông hóa những khoảng sân đanh đáo. Quê hương trong tâm tưởng và quê hương sau bao mùa dâu bể mấy khi đợi nhau, mấy khi còn cùng vẹn nguyên dáng vẻ. Để rồi, như một lời than “chưa về Huế đã vội vàng ra đi”. Để rồi, bài thơ đầu tiên trong tập thơ Lục bát Văn Công Hùng được bắt đầu bằng một bài thơ đẫm màu thu hoài niệm, có thể “mùa thu…” ấy đã xa lắm. Nhưng với anh, vẫn “… như thể nắng vừa trôi qua”.
Văn Công Hùng trong thế giới Lục bát của riêng anh thường hay… “lơ ngơ”, cái lơ ngơ lạc ra khỏi nhưng toan tính bon chen. Có lẽ, lúc ấy con người ta mới tinh tường, mới gặp được những vẻ đẹp thuần khiết trong những điều dung giản như một vạt hoa mua:
“lơ ngơ gặp vạt hoa mua
tím thì thật tím nhưng chưa cũ ngày”
Rồi trắc ẩn mà thương những lúc vẫn phải còn vất vả tít mù, thân phận con người ta như “con chim sẻ tìm không thấy nhà”:
“tít mù nam bắc tây đông
thương con chim sẻ tìm không thấy nhà”
Đã “lơ ngơ” thì thường… không hợp lý, ai lại “thì thôi bước xuống ruộng cà” mà lại “hái nhành sen trắng làm quà tiễn đưa”? Lạ thật! Sen thì ở ao sen, mắc mớ chi mà lại ở… ruộng cà? Vô lý! Nhưng cũng bởi thấy vô lý nên mới đọc đi đọc lại, rồi vỡ lẽ ra rằng: thế giới ước lệ của thi ca không phải là một không gian toán học - nơi ấy một cánh “hoa rơi” có thể làm “núi xẻ”. Bởi thơ thuộc về tâm hồn, mà tâm hồn thì có bao giờ màng đến… lý lẽ. Tác giả đã mượn hình tượng “ruộng cà” như một khái niệm về thế giới mộc mạc với những giá trị chân thật - rằng khi con người ta nhìn thấy những điều quí giá mà đơn giản, thì nơi “ruộng cà” nhọc nhằn của đời sống sẽ hóa điền tâm nở những nhành sen trắng giác ngộ - một ẩn dụ bằng một ý niệm Phật học kín đáo.
Trong bài “bến mê”, người đọc cảm thấy - chỉ là cảm thấy thôi - một nỗi khắc khoải dương tính, tác giả đã bàn về cơn khát dục tình rất mực tao nhân. Chỉ “ghẹo” nỗi khát của mình, chỉ tả “bờ giai nhân” rất… phòng the - một Văn Công Hùng phong tình mà kín đáo:
“chiều nay có một cánh buồm
trôi vào xứ lạ ghẹo cành san hô
nghiêng tai gánh một hải hồ
lưu ly nở trắng hai bờ giai nhân
có nhành rong biển tần ngần
mắt ti hí nhắm mà lần bến mê”
Tuy vậy, những câu thơ cuối là có vẻ gì đó… tần ngần, rằng vẫn muốn “gánh một hải hồ”, vẫn như sức trai vâm “mắt ti hí nhắm mà lần bến mê”. Nhưng có vẻ như vầng sung mãn ấy chỉ hướng về hoài niệm, chỉ ở trong cái “ước gì” bất khả - như càn khôn lộn ngược: “Ước gì trời thấp đất cao”:
“tai nghe vệt nắng sau hè
biết con chuồn tía thả bè từ tâm
tôi đem trăng thả vào rằm
thấy người thủa ấy đang nằm đếm sao
ước gì trời thấp đất cao
tôi cùng người ấy lên chào gốc đa…”
Văn Công Hùng có cái tài lặn lội vào tâm tư người khác bằng… thơ, anh có những câu thơ như kiến cắn - nhói mà không nhức nhối. Dường như đọc thơ anh, ai cũng thấy một chút chính mình trong ấy. Những khi mà con người ta “con người” nhất, như lúc mượn thơ mà tợp rượu “nỗi buồn loãng cả cơn say”. Nhiều lúc phăng phăng trên “chiến mã”, bỗng giật mình hãm phanh, không phải vì đèn đỏ mà vì… chợt nhớ đến thơ anh: “có những lúc rồ ga như tuẫn tiết / dốc chạy lùi cơn gió vút sau lưng”. Những điều đó đã là cá tính, nên trong tập lục bát này không hiếm những câu thơ kiến cắn dạng ấy. Nhưng không “hừng hực” nữa, mà đầy vẻ trần tình:
“với tay thì đụng vươn vai
duỗi mình lại gặp gió mài bóng trăng”
Đầy tự sự:
“vén khuya gặp tiếng mưa rào
nao nao nhớ cỏ chân mao lưng trời”
Đầy chiêm nghiệm:
“không bèo bọt, chưa đá vàng
ngẫm đời như lũ dã tràng biển khơi”
Thơ Văn Công Hùng giàu hình ảnh, những hình ảnh rất đỗi đời thường. Nhưng cái khác biệt là anh biết tạo nên từng cặp biền ngẫu trạng thái: đậm và nhạt, thực và mơ… Nếu làm họa sĩ hẳn rằng anh sẽ vẽ đẹp, bởi cái cách tổ chức hình ảnh trong thơ anh chặt về bố cục - một bố cục có phông nền, có điểm nhấn:
“hoa vông nở ướt lá gừng
tôi mang xa lạ vào rừng hoang vu”
Có gút thắt, có gợi mở…
“chiều như lửa đốt lòng nhau
tượng mồ run rẩy về đâu kiếp người
…
hoang sơ chiều rót tràn vai
ché và chiêng và đầy vơi rượu cần
nằm đây một nắm xương tàn
đứng dậy tượng hát một ngàn lời yêu”
Đôi khi, cái khả năng họa tả ấy kết hợp với cá tính phong tình vốn dĩ, làm người đọc có cái cảm giác đọc thơ anh như xem… tranh khỏa thân - một loại tranh khỏa thân ý niệm - mượn thiên nhiên để vẽ con người trên phông nền tưởng tượng:
“tôi đi về hướng thiên đàng
hình như con ốc vú nàng nhìn tôi
nhặt lên tia nắng mắt trời
gặp viên đá cuội với lời tịch nhiên”
Anh vẽ bằng thơ, hẳn rồi. Nhưng không tả thực cặn kẽ bao giờ - như phương cách của họa phái Ấn tượng: tổng quan được gói gọn - đầy đủ - nhanh, không cần lê thê nhằm tạo ra hiệu ứng diễn mở, hình ảnh trở thành đôi cánh trên vùng bay suy tưởng:
“khói đồng đốt giữa hư không
rơm vàng cột với lá vông mà buồn”
Khả năng quan sát và sử dụng hình ảnh này đã giúp anh nhiều trong những bài thơ có nội dung khắc họa những nơi anh đã từng qua: “ đò ngược phá tam giang”, “ta về Đà lạt”, “đêm Krông Pa” , “lục bát côn đảo”… những bài thơ ngồn ngộn hình ảnh:
“ta thương một cánh hải đường
qua giông bão nở trắng vườn Phong lai
Ngũ điền bạc thuốc nghẹn khoai
xuyên chân cát bỏng đâm trồi phi lao
…
ta về sen nở từ lâu…”
Có vẻ, như một thói quen tiềm thức. Lục bát Văn Công Hùng vẫn phảng phất nét thanh nhã một thời của dòng thơ trữ tình lãng mạn: “gói chiều vào mảnh khăn tay / em đem nhan sắc dãi bày mênh mông”. Nhưng chỉ đôi chỗ thôi, rồi như sực nhớ, anh lại quay về với cái tư chất của chính anh: tung tẩy… Tóm lại là trẻ, nhưng nói theo ngôn ngữ hè phố là… “trẻ không đều”: đang chân chất giọng trai làng khi ra vẻ “cầu trời phù hộ cho em / chờ khi cả gió đi buôn vịt giời” bỗng câu tiếp theo lại ngổ ngáo như một lãng tử phớt đời: “tôi ngồi đếm tuổi tôi chơi / đếm vu vơ đếm gọi mời bến mê”, tiếp theo nữa lại là một dạng ngôn ngữ đương đại đầy chất kỹ thuật, khi lắp thực tại hữu hình “em đi ngược” vào một thực tại trừu tượng “phía lời thề”. Có lẽ, nơi tiềm thức anh từng được lớn lên, đã từng được hít thở trong không gian thơ trữ tình lãng mạn, nhưng khuynh hướng cảm thụ và sáng tác đang chuyển dần về các thủ pháp của thơ đương đại. Nên tạo nên một phong thái “trẻ không đều” dễ thương ấy. Anh thoải mái đem những hình tượng dân dã “trộn” với cách ước lệ trừu tượng:
“hanh hao dế gọi đường mưa
một vầng sương nhỏ lọt vừa kẽ tay”
Rồi táo bạo - lấy những đơn vị hữu định “một ly, một chén, một bình…” để “đong” những cái… rất mơ hồ:
“ta đong một chén bình minh
một ly nghiêng ngửa một bình hoàng hôn
em nâng một núi thẳm buồn
một sông sung sướng một nguồn ngất ngây…”
Rồi là… nghịch ngầm:
“này em gió nội hương đồng
bờ sông cây cải đã ngồng lên dưa
bên chùa hoa táo gió đưa
nâu sồng xin chớ làm lơ câu chào
áo khăn mắc cỡ bờ rào
tình tang mô phật ta vào thắp hương
ước gì mắt ở sau lưng
để rồi ngộ cõi vô thường nhân duyên
…
tối nay đợi ở gốc đa
em cho ngồng cải để mà… muối dưa”
Và còn cả… “giang hồ” nữa. Nhưng như một kẻ du lãng đã về với cửa thiền định, thỉnh thoảng ngó ra ô cửa bức tường lý trí nghiêm thâm để thấy chính mình bên trong cái “một tôi” khác - là mình nhưng hình như… không phải chính mình: “một mình tôi với một tôi một mình”:
“ngày đi nghe tửng từng tưng
mây giang hồ thổi lưng chừng cõi duyên
ba mươi ngậm gió nhả thuyền
cánh buồm nhấn nhá một huyền xanh cao
lia ngang con mắt như chào
ai đem sa mạc thả vào xanh non
…
hình như có lúm đồng tiền chợt rơi”
Anh đẩy vào thơ mình những từ đắt nghĩa: “mỏng”, “khêu nỗi nhớ” “vắt”… Nhưng cùng lúc lại cố tình làm “rẻ” đi ở khía cạnh truyền tải thông tin bằng những từ mang ý nghĩa tương tự như liên từ - dẫn ý rất cụ thể như trong văn nói: “vào - theo - đến - tận - đổ…” ngõ hầu dìu cảm hiểu của người đọc đến với tứ thơ - điều đó cho thơ anh có độ lan tỏa rộng ra đại chúng những đối tượng người đọc:
“tường vi thì mỏng vào chiều
em khêu nỗi nhớ theo liêu xiêu gầy
đã vắt đến kiệt bàn tay
đã mưa mưa đến tận ngày nước rong
đã từng khóc đổ cơn mong
đã thôi ngọn nến cháy trong đốt ngoài”
Khoảng rỗng của nét khu biệt trong thơ Văn Công Hùng vừa đủ lớn để tạo ra một vùng nội suy sâu thẳm, nhưng không quá rộng đến mức có thể làm tối nghĩa một câu thơ. Điều đó vừa thể hiện yếu tố kỹ thuật, vừa thể hiện khả năng tiết chế cảm xúc - một khả năng chỉ có ở những con người đã trải nghiệm, đã từng “giời đày sáng tuổi chìm tên”, đã từng “u ơ hang đá mà quên chính mình”. Để rồi lúc trầm mình trong thơ, anh lượm trong cái túi vốn sống căng đầy ấy những triết lý nhân sinh đem bỏ vào Lục bát, và dù vẫn làm “mờ” nghĩa đi để có sức gợi suy, nhưng vẫn khéo léo dừng lại ở mức độ bóng nghĩa còn ẩn hiện, để thơ anh không đến mức quá khó hiểu:
“tay cầm cái khổng khồng không
hát cho một thủa trầu nồng vôi chua”
Vì thế mà những câu thơ vẫn đẹp nhưng không bị mất đi độ sâu triết lý:
“lá rơi chẳng biết cành đau
nước trôi hòn sỏi nhuộm màu hớ hênh
mùa đi chân mây nổi nênh
một manh cỏ muộn xanh đành xanh thôi”
Người ta gặp trong lục bát Văn Công Hùng rất nhiều kỷ niệm ở một ngày xưa kham khổ, thủa mà đời sống còn nghèo nàn nhưng ấm áp: con đường dâm bụt, mảnh sân đất thịt, mái tranh, sợi lạt nằm dưới bánh chưng, má hồng răng đen… Những kỷ niệm gần gũi đến độ tưởng như có thể sờ nắn được ấy được anh dùng làm gạch đá để xây thơ - nhưng cái lạ là vôi vữa để ghép những viên gạch thô mộc ấy lại là những gì rất bảng hoảng, lãng đãng: một tâm thế như “giờ đồng lên”, một tâm cảnh như “cõi bùa mê”, một ánh sáng tri giác lung linh như “ cây nên thắp như là chiêm bao”... Vì thế mà thơ Văn Công Hùng như chông chênh giữa thực tại và mộng huyễn; giữa cõi đời hữu chấp và miền giác ngộ vô chấp; giữa lãng mạn trữ tình và nghênh ngao xổ toẹt; giữa đền đài miếu mạo cổ kính và khối hình lập thể hiện đại… Anh lựa chọn giữ lại những cái cũ linh diệu chỉ ở mức độ “ôn cố” và chủ động kiềm chế cái chất đương đại vừa vặn ở mức độ “tri tân”. Cho nên, khi tôi viết bài trao đổi nhỏ này - dù thấy rõ mồn một màu thơ riêng chỉ có ở nét thơ của thi nhân họ Văn, dù rất muốn đặt tên cho phong thể Lục bát Văn Công Hùng. Nhưng rồi không thể gọi tên - chỉ còn biết níu vào một câu thơ của anh để mà tạm gọi: Lục Bát Văn Công Hùng - “rơi ngang một giọt không tên”. Trong cách cảm hiểu hời hợt của cá nhân tôi - lục bát Văn Công Hùng là… một nàng Lục bát mung miêng - không tên như thể có tên lâu rồi...
Miên Di
Email: miendi1976@yahoo.com
Nguyễn Thị Diện - dienphunust@yahoo.com.vn - 0919.571.078 - Sóc Trăng
(Ngày 13/11/2010 05:43:54 PM)
Xin chúc mừng: Lục bát Văn Công Hùng – “rơi ngang một giọt không tên”
"Rơi ngang một giọt không tên" Hồn thơ lục bát vẫn bền nét duyên Tứ gieo mềm mại, nhuẫn nhuyền Thơ rơi mang cả nỗi niềm người thơ. NTD |