• Cung kính, chu đáo. Cô vợ chăm sóc, lo lắng cho chồng đi trọ học trong trường không thiếu thứ gì, lại rất ngoan, lúc nào cũng lễ phép chào thưa chồng, thật dễ thương.
Đôi bên bác mẹ cùng già
Lấy anh hay chữ để mà cậy trông.
Mùa hè cho chí mùa đông
Mùa nào thức ấy cho chồng ra đi
Hết gạo thiếp lại gánh đi
Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao
Hỏi thăm đến ngõ thì vào
Tay đặt gánh xuống miệng chào: thưa anh.
Cô vui vẻ cung cấp “mồi” cho chồng “nhậu”. Có một người vợ như thế hẳn là thích thú vô cùng:
Đốt than nướng cá cho vàng,
Lấy tiền mua rượu cho chàng uống chơi.
• Hiếu khách. Nhất là khách lại là bạn của chồng, dù cực nhọc đến mấy, người phụ nữ lúc nào cũng đơn độc, lủi thủi, cố gắng cơm nước phục vụ khách đầy đủ, tươm tất, cho vui lòng lang quân.
Cái bống là cái bống bình,
Thổi cơm nấu nước một mình mồ côi.
Rạng ngày có khách đến chơi
Cơm ăn rượu uống cho vui lòng chồng.
• Hy sinh. Đối tượng cũng lại là chồng, con cùng gia đình chồng. Không quản nắng mưa, cực khổ, trèo đèo, lặn suối. Chữ “khổ” (có vị đắng, lo lắng), “gánh”(cho cảm giác nặng nề), “lụy”(trói buộc, sự gì phiền đến thân), ‘đắng cay”, “mặn nồng”, “gắng công” (cố sức) dồn dập tuôn ra. Toàn là những từ chỉ sự khổ sở, nhọc nhằn. Không thấy có vị ngọt.
Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
Có chồng phải lụy cùng chồng
Đắng cay phải chịu mặn nồng phải theo.
Hoặc:
Thương chồng nên phải gắng công
Nào ai xương sắt da đồng chi đây
Xem gia đình chồng là gia đình mình.
Anh về hái đậu chày cà
Để em đi chợ kẻo mà lỡ phiên,
Chợ lỡ phiên tốn công thiệt của,
Miệng tiếng người cười rõ sao nên,
Lấy chồng phải gánh giang sơn,
Chợ phiên còn lỡ, giang sơn còn gì.
Hay:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng
• Quên thân mình. Bản thân và nhan sắc không còn gì cả. Úa tàn. Ủ rũ. Cực khổ. Thật là tội nghiệp. Còn đâu “yếm thắm hở lườn”, hấp dẫn như lúc chưa chồng. Người vợ trèo đèo, lặn suối, mò cua bắt ốc suốt ngày để mưu sinh. Cụm từ “vú xếch lưng eo” dễ cho người ta liên tưởng đến hình ảnh “vú thỏng dưa gang”. Chữ “vì” được lập đi lập lại nhiều lần nhấn mạnh “thủ phạm” làm nhan sắc tàn phai chính là người chồng.
Một ngày ba bận trèo đèo
Vì ai vú xếch lưng eo hỡi chàng.
Vì chàng thiếp phải mò cua,
Những như thân thiếp thì mua mấy đồng.
Vì chàng thiếp phải long đong
Những như thân thiếp cũng xong một bề.
• Chịu đựng bất hạnh. Nếu vô phước gặp một người chồng không ra gì, bài bạc, ăn chơi phá của, công nợ ngập đầu, người vợ âm thầm gánh chịu, trang trải nợ nần, “ngậm bồ hòn” không dám than van vì sợ xấu hổ.
Chồng em nó chẳng ra gì
Tổ tôm xóc dĩa nó thì chơi hoang.
Nói ra xấu thiếp hổ chàng,
Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà.
Nói đây thời có chị em nhà,
Còn năm ba thúng thóc với một vài cân bông
Em bán đi trả nợ cho chồng.
Còn ăn hết nhịn cho hả lòng chồng con.
Đắng cay ngậm quả bồ hòn…
• Yêu nước. Khuyến khích chồng lên đường đánh giặc, bảo vệ đất nước, giúp chồng yên tâm lên đường bằng cách chăm sóc gia đình chu đáo.
Chàng ơi phải lính thì đi,
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.
Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.
Hình tượng phụ nữ Việt
Tôi rất khâm phục phụ nữ thời xưa, sức chịu đựng, đức hy sinh của họ thật vô cùng. Gặp nghịch cảnh gì cũng âm thầm chịu đựng. Có lỗi là bị chồng bỏ. Ít thấy ai bỏ chồng cho dù chồng thuộc loại “tổ tôm xóc dĩa” vì trọng danh giá “Nói ra xấu thiếp hổ chàng”. Phụ nữ ngày nay không hoàn toàn giống như phụ nữ ngày xưa. Một số quan niệm lỗi thời đã bị đào thải, nhưng một số đức tính căn bản vẫn còn. Có lẽ, do ảnh hưởng Nho giáo lưu truyền trong thơ văn. Giá trị đạo đức vẫn còn được phụ nữ trong nhiều gia đình Việt
Ct.Ly Sưu tầm