Thứ ba, 31/12/2024,


Xin tha cho kẻ đã làm hại ta (27/03/2010) 

CHÙA LÀNG

 

Làng nghèo, nên chùa cũng nghèo

Sân đầy lá rụng, vắng teo bóng người

Đôi con nghê đá ngồi cười

Hai bà vãi trẻ lại lười thắp nhang 

 

Ngày rằm, mồng một... mấy nàng

Thẹn thùng cùng mấy anh chàng trai tơ

Ôm eo xe máy lượn lờ

Đi chùa toàn mặc quần bò áo phông 

 

Thương cho mấy chị muộn chồng

Thương cho mấy cụ lưng còng đường xa

Thương cho em, thương cả ta

A di đà Phật, cùng ra chùa làng... 

 

Người ta cầu phúc, cầu an

Cầu tài, cầu lộc, cầu toàn vận may

Cầu tình –  yêu phải thật say

Cầu tiền –  vàng bạc chất đầy vẫn tham 

 

Ta cầu cái chẳng ai ham

Tha cho mấy kẻ  đã làm hại ta

Chỉ xin sáng tỏ chính – tà

Để năm mới đến nhà nhà yên vui...

 

Đặng Vương Hưng

 

 

      

 

Chùa làng là nơi thờ Phật ở mỗi làng quê, có lẽ ở Việt Nam từ ngàn xưa làng nào cũng có chùa. Người dân, hay Phật tử đến chùa là đến chốn linh thiêng am thanh tịnh mịch để tu thân tích đức, cầu xin được khai tâm mở tính khỏi bị u mê lầm lạc, được minh triết sáng láng thênh thang trên con đường thiện với mọi sự an lành. Nhưng ngôi chùa mà nhà thơ Đặng Vương Hưng dẫn dắt chúng ta tới không được như mong muốn. Còn nhiều nghịch cảnh u uẩn buồn lòng. Chùa hiu hắt vắng, lá ngập ngụa sân, vãi lười lẫm biếng nhác, để chùa thiếu đi sự trong lành, vẻ tôn nghiêm, khói lạnh nhang tàn. Cảnh đã thế, còn người thì: có những chàng, nàng toàn quần bò áo phông, xe máy lượn lờ, ôm eo phản cảm. Sự thật đau lòng ấy là một thực trạng cảnh báo: truyền thống tốt đẹp đi chùa, nét văn hoá tâm linh ở nhiều làng quê đang bị biến dạng xuống cấp. Những nghịch lý diễn ra nơi cửa phật, chẳng những đã xúc phạm đến Thần linh mà còn là nỗi đau lòng của mỗi người lương thiện tới chùa vì nghĩa cử cao đẹp, tìm kiếm sự thanh thản cao khiết. Đến với Chùa làng nhà thơ đã nghe được những lời cầu nguyện tâm thành trong sáng làm ta yên lòng, nhưng cũng nghe được không biết bao nhiêu lời nỉ non lầm lẫn của phật tử chúng sinh bởi lòng dạ tham lam tư lợi. Cửa Phật không ban cho ai vàng bạc danh vọng địa vị, không là nơi trú ngụ che chở cho cái ác mà chỉ dẫn lối mở đường cho con người đến với cõi thiện, với an lành. Phật không chấp nhận: Tham, Sân, Si. Hai mươi câu lục bát dẫn dắt, có lẽ Nhà thơ dùng thủ pháp thả mặc cho ý tưởng tản mạn lang thang, quan sát mô tả cảnh chùa, như chả có gì lạ lẫm khác biệt, để rồi bất ngờ đẩy chủ kiến lên ngôi:

 

Ta cầu cái chẳng ai ham

Tha cho mấy kẻ đã làm hại ta

Chỉ xin sáng tỏ chính - tà

 

           Đây mới là ý tứ thâm hậu, khác người, khác thường, là chủ đích mà nhà thơ Đặng Vương Hưng hướng tới mở lòng mình trước cõi linh thiêng. Ông mang tâm nguyện tới cửa Phật cầu tha cho kẻ đã làm hại mình, làm mình khốn đốn thì thật lạ, điều cầu như vậy thì chắc chẳng mấy ai ham thật. Lẽ thường người bị hại, bị vu oan giá hoạ đến chùa để cầu được giải oan, kẻ tội đồ phải bị trừng phạt, chứ có mấy ai xin tha cho kẻ rắp tâm  làm cái việc thất đức độc ác thế bao giờ? Đó mới là cái hay, nét độc đáo, lòng độ lượng hiếm có, khác thường của Phật tử - nhà thơ Đặng Vương Hưng. Phải chịu đựng nỗi oan khuất, lặn lội đến ăn mày cửa Phật, chấp nhận chứng kiến mọi nghịch cảnh đau lòng chỉ để cầu tha cho kẻ vô lại hại mình đã làm phát sáng tính nhân bản của bài thơ. Cách ứng xử nhân văn hiếm thấy: lấy ơn trả oán thì oán sẽ được loại trừ tận gốc. Có lẽ đây cũng là cách thức tỉnh, điều chỉnh đúng đắn hữu hiệu nhất cho những kẻ độc ác tham lam còn nhởn nhơ ngoài đời hay vẫn lui tới giả bộ từ bi phiền nhiễu ô uế cửa Phật. Điều cầu nguyện riêng tư cho nhà thơ chỉ là mong Phật pháp anh minh, chính tà sáng tỏ. Đó cũng là sự đòi hỏi vươn tới lẽ công bằng của thiết chế muôn đời chứ nào chỉ là khao khát tâm nguyện riêng ông.

 

 Bài thơ đã gây được ấn tượng mạnh mẽ, sức lay động bất ngờ ở ba trong bốn câu của khổ kết. Thế mới biết cái tứ của một bài thơ thật vô cùng hệ trọng, tứ thơ hay, độc đáo, bạn đọc sẽ thể tất cả những khiếm khuyết của câu chữ mà tâm đắc đồng cảm sẻ chia với bài thơ. Lại như cách nói của nhà thơ Huy Trụ: Cho đời nhớ được một câu / Bạc đầu người viết chắc đâu đã thành, thì bài thơ Chùa làng của Nhà thơ Đặng Vương Hưng đã có được câu thơ như thế./.

 

Ninh Bình, ngày 16-3-2010

 

      Nhà thơ Lâm Xuân Vi

ĐC: Hội VH-NT Ninh Bình

     Điện thoại: 0913 292 185

Email: xuanlamvi@yahoo.com

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
  Đặng Kim Hùng - kimhungdang@yahoo.com - 03203541271 - Sao Đỏ, Hải Dương  (Ngày 1/04/2010 12:00:04 AM)
       Bạn Nguyễn Đức Trường phân tích bài thơ thật sâu sắc và chí lý.
       Tầm cỡ Nhà thơ tài hoa Đặng Vương Hưng là phải mang tầm tư tưởng như vậy. Mọi câu chuyện đi chùa, cảnh lễ chùa chỉ là các nấc thang, chỉ là con đường nhỏ, là cái cớ để ông dẫn dắt ta đến với tư tưởng của Khổng Tử mà thôi.
       Vậy nên, khi đọc bài thơ, có lẽ không nên sa đà lắm vào các hình ảnh bên lề: "Nam nữ quần bò, áo phông/ Trai tơ, phụ nữ muộn chồng, ôm eo...". Hình ảnh này chỉ là cái nền rất đa dạng và phong phú để nổi lên tâm điểm của bài thơ.
      Thế mới biết bình thơ là khó thật!
      Đọc bài bình, có bài làm mờ nhạt bài thơ, có bài làm rõ nội dung bài thơ, có bài nâng cao tầm tư tưởng bài thơ.
      Có những người cả đời không làm bài thơ nào, nhưng lời bình của họ có tầm cao tư tưởng của thời đại, có nhãn quan trong sáng vừa khoáng đạt vừa tinh tế.
      Nhiều nhà phê bình nổi tiếng như: Hoài Thanh, Hoài Chân, Hồng Diệu, Phan Cự đệ, Vương Trí Nhàn... đội ngũ làm thơ hiện nay rất đông, nhưng người bình thơ hiện nay vắng bóng và hiếm hoi như lá mùa thu...Trang lục bát này cũng nổi lên nhà thơ và nhà bình thơ Lâm Xuân Vi với nhiều bài bình luận rất sâu sắc. Có lẽ, nguồn bài thơ lục bát đã nhiều, cũng nên có đội ngũ bình thơ đông đảo thì hay biết bao nhiêu.
      Thưởng thức một món ngon mà có người giúp ta chỉ ra ngon ở hương vị gì, ở chất bột, chất thực phẩm hay ở gia vị, hay ở cách nấu... thì khi ăn ta càng cảm thấy ngon hơn.
      Có những người hiểu được cái cốt lõi của bài thơ như bạn Nguyễn Đức Trường thật là đáng trân trọng.
      Xin cảm ơn bạn rất nhiều.
  Nguyễn Đức Trường - suthuthach@gmail.com - 0128.823.8053 - 47/459 Bạch Mai, Hà Nội  (Ngày 29/03/2010 11:23:22 AM)

Tâm điểm của bài thơ 

     Tâm điểm của bài thơ là quan điểm của Tác giả:

Ta cầu cái chẳng ai ham
Tha cho mấy kẻ đã làm hại ta
Chỉ xin sáng tỏ chính – tà
Để năm mới đến nhà nhà yên vui...

     Ở bài này, nếu chỉ nhìn vào cái đầu bài thì chưa hẳn đã trúng tâm điểm của bài thơ mà Nhà thơ Đặng Vương Hưng muốn nói tới. Câu chuyện Nhà thơ đi vãng cảnh chùa làng, gặp cảnh chùa vắng, khách dến chùa quần bò áo phông, người cầu phúa, người cầu an, người cầu tài tộc, người cầu lương duyên... chỉ là cái cớ để nói lên ý ông muốn nói, là cái nền để dựng lên chủ đề của bài thơ.
      Thực ta tâm điểm của bài thơ này nằm cả trong 4 câu trên. Nó bao hàm các nội dung là: Nhà thơ muốn Xin tha cho kẻ đã làm hại chính mình. Đây là theo quan điểm "lấy đức báo oán" để thu phục những kẻ ác hướng thiện. Nhưng cái hay lại nằm ở câu sau là : phải làm rõ chính-tà, phải trái, không thể mập mờ giữa cái thiện và cái ác, giữa cái thật và cái giả, giữa cái thực và cái hư, giữa công và tội...
      Nói tóm lại là phải phân minh, lấy điều thẳng, điều đúng để báo lại. Nếu lấy lòng từ bi bác ái mà bao dung cả kẻ xấu, kẻ ác  mà không chỉ ra cho họ cái điều xấu, điều ác để họ ăn năn hối cải thì chẳng khác nào "nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà", trước sau thì cũng bị mầm mống tội ác do bao dung này báo hại. Phải lấy đức để cảm hoá nhưng phải chỉ rõ đúng và sai, xấu và tốt của họ để họ giác ngộ mới là điều nên làm.
     Tâm điểm bài này thực ra lấy ý trong truyền thuyết về Khổng Tử như sau:
     " Sách Luận ngữ đã chép, có một học trò hỏi Khổng Tử một câu về xử thế: “Dĩ đức báo oán hà như?”( 以 德 報 怨 何 如?) (Lấy điều đức để báo oán lại oán thù có được không?) Khổng Tử trả lời: “Bất nhược dĩ trực báo oan” (不 弱 以 直 報 冤!) (Không bằng lấy điều thẳng để báo lại!).
      Qua bài thơ này, chúng ta hiểu thêm về Khổng tử và quan điểm tư tưởng của Nhà thơ là theo thuyết của Khổng tử, một thuyết hay mà Hồ Chủ tịch cũng đã nghiên cứu và vận dụng để hình thành những điểm cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nguyễn Đức Trường

  mai gia bao  - hmapmap@yahoo.com.vn - 01699858377 - Ấp SBC, tổ1, tx TN  (Ngày 29/03/2010 08:02:49 AM)

      Sau khi đọc ý kiến của bạn Huệ Triệu, bạn đã khiêm tốn nói rằng: "người đọc như tôi – dù khá mỏng kiến thức về chùa chiền, vẫn không thể đồng cảm được với những “quần bò áo phông” len lỏi vào cổng chùa !"
       Theo tôi, bạn như vậy là lạc hậu đấy. Bây giờ vào chùa là thú vui của nhiều người, không riêng các bà già mặc áo nâu sồng, mà có cả những người dân bình thường nữa. Dân thường thì ăn vận bình thường như trong cuộc sống vốn có của nó, miễn là trong lòng họ hướng thiện, đến với cửa Phật với tấm lòng từ bi bác ái...
     Ngày xưa, lâu lắm rồi, các cô gái còn mặc yếm lên chùa nữa cơ mà. Mời bạn đọc câu ca dao này nhé:

 "Mấy cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Cho lăn lóc đá, cho sư trọc đầu"

      Bây giờ các cô gái đi chùa với người yêu để cầu an, cầu hạnh phúc là quá thường tình.
     Cái hay cái đẹp của Thơ Đặng Vương Hưng là "dám xin tha cho kẻ đã làm hại chính mình," Điều này đã làm đúng lời răn của Phật: "Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình" chứ không phải là kẻ hại mình. Nếu bạn chiến thắng được bản thân mình, không để thù hận phải day dứt làm khổ mình, không làm như kẻ tiểu nhân là thù phải trả thù, mà lấy ân báo oán.
      Cái điều xin tha cho kẻ hại mình ấy là tư tưởng Phật giáo, không mới, nhưng tác giả bài thơ đã ngộ được điều ấy, vậy nó là ánh sáng của bài thơ, và cũng là tâm điểm của bài thơ.
      Hình ảnh khách đến chùa "quần này áo nọ" chỉ là cái hình ảnh mà ai cũng nhìn thấy, bề ngoài thì như vậy đấy. Nhà thơ là phải hơn người khác biết nhìn thấy cái nội tâm phía bên trong họ, đấy mới là nhà thơ.
      Ở đây, tác giả bình thơ đi vào cái hình ảnh thông thường mà chưa khai thác sự thâm thuý và độ lượng của tấm lòng đại từ đại bi của tác giả bài thơ.
      Nhận xét một bài thơ cũng như nhận xét một con người, ta phải nhìn vào gương mặt họ, đôi mắt họ mà đánh giá, vì ánh mắt gương mặt thể hiện tích cách một con người. đánh giá qua quần áo hay cái giày cái dép thì khó nói được bản chất của người mà mình muốn đánh giá. Vì vậy, người bình không nói được cái tâm cốt của bài thơ, tất nhiên không làm hỏng bài thơ nhưng sẽ làm bạn đọc hiểu chưa chủan bài thơ.
      Như vậy, bình thơ có mấy vấn đề phải lưu ý: Đồng cảm với tác giả bài thơ và hiểu bài thơ. Viết lên ý hiểu của người bình bài thơ. Định hướng cho người đọc hiểu thế nào cho đúng, sâu sắc về bài thơ.
     Như vậy bình thơ khó lắm thay.
     Ngươì bình thơ phải có trách nhiệm với lời bình của mình, không phải bài nào cũng cứ khen hay để cho người làm thơ hài lòng đắc ý, mà lời chê đúng chỗ còn hay hơn cả lời khen nữa kia.
     Bình thơ cần phải có vốn kién thức rộng. Nếu không anh sẽ nhìn bài thơ qua một lăng kính với góc nhìn hẹp và dễ hiểu lệch bài thơ.
     Trên đây là mấy dòng tâm sự, nếu có điều gì không hài lòng các tác giả và anh Huệ Triệu, xin mọi người hết sức thông cảm cho.

  Huệ Triệu - huetrieulhp@yahoo.com.vn - 0909221691 - Thành phố HCM  (Ngày 28/03/2010 11:40:09 PM)
           Nhân đọc ý kiến của tác giả mai gia bao - hmapmap@yahoo.com.vn Hiểu cho đúng một bài thơ đã khó, bình một bài thơ còn khó hơn. Bởi lẽ, đâu chỉ làm toát lên hồn vía của bài thơ, người bình thơ phải “gặp” được người làm thơ ở nhiều phương diện. Theo tôi, tác giả bài viết Lâm Xuân Vi đã có một cuộc gặp gỡ khá mặn mà với nhà thơ Đặng Vương Hưng khi viết bài bình này. Nghĩ đến chùa – mà lại là chùa làng, chắc chẳng ai lại không để tâm trí mình đi về một cõi bình yên, thuần khiết nhất, Ấy vậy mà, bức tranh chùa làng của Đặng Vương Hưng lại không cho người ta cảm giác ấy, người đọc như tôi – dù khá mỏng kiến thức về chùa chiền, vẫn không thể đồng cảm được với những “quần bò áo phông” len lỏi vào cổng chùa ! Bài thơ là một chuỗi những nghịch lí, tác giả Lâm Xuân Vi, theo tôi, đã khai thác đúng hướng, và đâu có bỏ qua cái căn cốt, cái hồn vía, cái tứ thơ rất độc đáo – lại cũng là một nghịch lí, của bài thơ, để từ đó cho mọi người cùng thấy nét nhân hậu trong tâm hồn người làm thơ. Đi chùa, nói cho cùng, cũng là để tìm được sự bình yên thật sự của tâm hồn, cho dù điều này cũng khó lắm thay ! Lâm Xuân Vi đã làm toát lên điều ấy. Tôi cho rằng đây là bài bình thơ thành công của nhà thơ - nhà phê bình Lâm Xuân Vi
  mai gia bao - hmapmap@yahoo.com.vn - 01699858377 - Ấp SBC, tổ1, tx TN  (Ngày 28/03/2010 10:37:13 AM)

      Bài thơ của Đặng Vương Hưng hay ở nhiều phía, phân tích của tác giả LXV vẫn chưa bao quát hết các khía cạnh của tứ thơ. Xin được góp thêm đôi điều:
    - Khách vãng lai đến chùa bao gồm mọi thành phần. Thời đại nào cũng thế. Thời phong kiến thì có quan lại, chức sắc, tá điền, địa chủ, cố nông... nên quần áo cũng đủ dạng. Thời nay khách cũng đủ tầng lớp, nên khách mặc quần bò còn may chán, có cô còn mặc váy cực ngắn nữa kia. Nhưng dù mặc thế nào, họ cứ thành tâm là được. Phật tại tâm mà. Không đáng trách họ lắm.
     - Tâm điểm của bài này nằm ngay ở đầu đề: Xin tha cho kẻ đã hại mình. Cái tứ nó hay ở chỗ này. Tác giả chỉ phân tích nghịch cảnh khi đến chùa này mà chưa phân tích nội tâm rất từ bi, bác ái, vị tha và tấm lòng bồ tát của tác giả bài thơ. Vì vậy chưa phân tích cho đến ngon nguồn cái hay cái đẹp bài thơ.
     - Những nghịch lý diễn ra nơi cửa phật, chẳng những đã xúc phạm đến Thần linh mà còn là nỗi đau lòng của mỗi người lương thiện tới chùa... Ở đây, "cửa Phật" tác giả không viết hoa, và trong chùa chỉ có Bụt thôi không có Thần linh. Thần linh chỉ có ở đền, đình. Thần linh là những người có khả năng phi phàm, hơn người và có công vơí làng nước. Còn Phật là những người đã giác ngộ và tu thành chính quả mà thành? 
      - Phật tử (những người theo đạo Phật) nhiều chỗ tác giả không viết hoa chữ Phật. Chỉ có tĩnh mịch chứ không có tịnh mịch.
      - Yêu đương ở cửa chùa không phải là chuyện hiếm, nên ôm eo là thường tình. Gần đây nhiều người còn tổ chức lễ cưới trong chùa nữa kia, như diễn viên Hồng Ánh chẳng hạn...Không nên đau lòng quá khi thấy cảnh này.

 

Các bài khác: