Đi vào cụ thể, những chuyển biến trong phương thức biểu hiện của Giai nhân kỳ ngộ diễn ca như nói ở trên thực ra không phải là những đảo lộn đột ngột. Phan Châu Trinh - đúng hơn ngay ở bản dịch của Lương Khải Siêu - đã không phá vỡ tất cả mọi thủ pháp nghệ thuật cổ truyền. Kiểu diễn tả ước lệ vẫn được sử dụng xen lẫn với ngòi bút điểm xuyết sát sao, tỉ mỉ. Bên cạnh việc trưng dẫn tên tuổi rất nhiều danh nhân lịch sử thuộc các trào lưu dân chủ tư sản cận hiện đại, điển cố Trung Hoa vẫn có mặt phổ biến cùng những quy tắc thông báo thẩm mỹ quen thuộc trong văn học cổ phương Đông. Có thể nói Giai nhân kỳ ngộ diễn ca nằm giữa hai lực đẩy ngược nhau: một bên là sức níu kéo của cái nhìn nghệ thuật theo tư duy quá khứ đối với tuyến cốt truyện tình yêu mà người dịch chữ Hán cũng như người chuyển thành thơ tiếng Việt chưa thoát ra được những ảnh hưởng lâu đời của dòng truyện giai nhân tài tử Trung Quốc. Bên khác là yêu cầu trần thuật những câu chuyện cụ thể, có thật hay giống như thật gắn với loạt cốt truyện phiêu lưu và tuyến tự sự lịch sử theo kiểu tiểu thuyết Âu Mỹ, đòi hỏi một sự đột phá trong ngòi bút tái hiện của nhà văn. Phan Châu Trinh đã tìm tòi đổi mới truyện thơ lục bát dưới áp lực không tự giác của hai loại ảnh hưởng trái chiều này trong tiềm thức của mình.
Rất dễ hiểu vì sao việc tả người tả cảnh nhằm ngụ tình ngụ ý, họ Phan vẫn thừa kế đến tối đa những thành tựu của truyện nôm giai đoạn trước, dùng ngôn ngữ biểu tượng là chính. Các cô gái phương Tây sắc nước hương trời được ông chấm phá theo phương pháp hoán dụ, vay mượn những mô-tip có sẵn. Tả gương mặt và dáng dấp kiều diễm của Hồng Liên còn mường tượng ra đôi ba nét đặc thù nào đấy:
159. Tần ngần đứng trót giờ lâu,
Một nàng sửa áo xốc bâu lại gần.
Tác vừa hăm tám thanh xuân,
Mắt xanh, răng trắng, thanh tân lạ lùng.
Màu da mia mỉa giá trong,
Tóc mây giùm dã, lưng ong dịu dàng.
Gần xem phong thể lại càng thêm xuê.
Phong nghi rất mực thâm khuê,
168. Bóng sen thấp thoáng, bông lê la đà.
Nhưng đến dung nhan cùng phục sức của U Lan thì đặt bên cạnh một giai nhân nào trong truyện nôm cũng khó phân biệt:
221. Cửa ngoài sẵn thấy một nàng,
Xa trông lấp ló, trăng vàng mây che.
Gần xem trong trẻo, nhỏ nhe,
Mỉa mai hạc trắng, lập lòe thềm tiên.
Độ chừng mười chín hoa niên,
Tân trang đẹp đẽ sánh tiên Quảng Hàn.
Đủ màu thu thủy xuân san,
Nói cười niềm nở, dung nhan mỹ miều.
Xiêm the vừa thắt ngang eo,
230. Gót sen thấp thoảng, hương đeo nức người.
Chuyển sang những cung bậc sâu xa của tình cảm đôi lứa, ảnh hưởng truyện nôm, nhất là Truyện Kiều, còn rõ hơn. Trong lĩnh vực phô bày tâm trạng yêu đương, chưa một ngòi bút nào có mãnh lực như Nguyễn Du. Hầu hết các nhà viết truyện nôm thế kỷ XIX đều là ảnh xạ của ông dù nhiều dù ít. Phan Châu Trinh chẳng phải ngoại lệ. Người đọc không khó đọc ra một chút ám ảnh Nguyễn Du đâu đó trong những đoạn thơ có thể gọi là 'ưng ý' của Giai nhân kỳ ngộ diễn ca. Đoạn kể nỗi lòng U Lan - qua mấy câu đối thoại giữa nàng với Hồng Liên - khi nhận được tin cha mắc nạn, mình sắp phải băng vời về cứu, không kịp chia tay với Tán Sĩ:
3050. Hành trang dọn dẹp đã an,
Nàng còn nương bóng thở than một mình.
Thiếp liền cặn kẽ ngọn ngành,
Nàng rằng: 'Còn vướng chút tình bấy lâu.
Thình lình sấm sét rơi đầu,
3055. Muốn quên mà dạ quên đâu cho đành...'
Nghe phảng phất lời trao gửi của Thúy Kiều với Thúy Vân về Kim Trọng trong đêm trước hôm theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri. Đoạn cực tả tiếng hát của Hồng Liên, chất chứa chút ghen tuông bóng gió trước mối tình sét đánh giữa U Lan và Tán Sĩ:
1383. Điệu thanh mai mỉa tiếng oanh,
Điệu sầu thấp thoảng non Hoành nhạn kêu.
Cung thương mấy giọng tao tiêu,
Nửa phần đau ruột nửa điều xót gan.
Giọng nàng còn hãy miên man,
1388. Thoạt nghe cũng khiến U Lan lạnh mình.
Nghe phảng phất tiếng đàn Kiều gảy trong đêm thề nguyền với chàng Kim. Đoạn tả khung cảnh héo úa trước nhà U Lan khi Tán Sĩ trở lại tìm nàng, nàng và Hồng Liên đã mất dấu:
165. Bến Đề gắng gượng mò lần,
Mặt soi đáy nước mấy phần khô khan.
Thất kinh chàng mới thở than:
'Vì ai cay đắng dở dang thế này.
Hay là chẳng thấy nhau đây?'
Dứt lời thuyền đã tới cây liễu còi.
Bước lên xem lại hẳn hòi,
Cửa nhà tan tác, trong ngoài vắng tanh!
cỏ gà cỏ xước mọc quanh,
Lối xưa dấu cũ, in hình mỉa mai.
Đưa đàng đón ngõ là ai?
Trông ra tùng rụi, liễu còi mấy cây.
Thương ôi! Bữa trước chốn nầy,
Đêm nằm thấy mộng là đây rõ ràng.
Rành rành biển thẳm non thương,
Mà nay ngẫm lại một trường mộng xuân.
Bốn tường gió cuốn mưa vần,
Cửa gài then đóng, giai nhân nẻo nào?
Chín chiều ruột thắt quặn đau,
1678. Bâng khuâng gốc liễu, đi đâu bây giờ?
Nghe phảng phất quang cảnh tiêu điều lúc Kim Trọng trở lại nơi kỳ ngộ và trở lại vườn Thúy. Còn nhiều nữa.
Nhưng để theo kịp cái tinh tế của Nguyễn Du trong ngôn ngữ tỏ tình không dễ. Phan Châu Trinh đã không làm sao diễn đạt được những lời nói 'ý tại ngôn ngoại' giữa Tán Sĩ và U Lan. Trước mối tình đột ngột của nàng U - vừa thoáng gặp đã yêu ngay Tán Sĩ - ông không biết xử trí thế nào, đành nhờ 'bà mối' Hồng Liên nói thay, dù nói vào lúc hai bên chưa biết gì về nhau cũng là đường đột: 'Từ khi Phủ Bí gặp chàng/ Chị tôi nằn nỉ lòng càng khôn khuây/ Lạ thay cái giống bèo mây/ Bữa qua trong các bữa này ngoài sông/ Ước chi đặng đính chữ đồng/ Bàn duyên giải cấu bớt lòng tương tư' (câu 205-210). Và về phía Tán Sĩ, đáp lại cử chỉ âu yếm của U Lan lúc từ giã: 'U Lan gắn bó khôn khuây / Tay cầm bông cúc gài ngay áo chàng' (câu 1575-1576) lại cũng có một lời 'lấy lòng' rất vụng, không phải xuất phát từ tâm can mình: 'Chàng liền cười nói rập tình / Rằng: 'Nàng thiệt kẻ chung tình yêu hoa / Những bông biết nói xuê xoa / Ngày sau chẳng biết của ta của người' (câu 1579-1582). Ở góc độ sử dụng ngôn từ ước lệ để bộc bạch nội tâm, Giai nhân kỳ ngộ diễn ca có lúc đã không thoát sáo do đứng quá gần bản dịch chữ Hán (12), và Phan Châu Trinh giỏi lắm cũng mới là con số cộng trung bình giữa Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu.
Tuy vậy, chuyển sang ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ đối thoại, ngòi bút tác giả đã cố gắng thay đổi. Một đặc điểm dễ thấy là tiểu thuyết Giai nhân kỳ ngộ sử dụng đối thoại với liều lượng đáng kể. Tác giả biết gắn hành động của nhân vật với lời thoại, và biến lời thoại thành yếu tố xúc tác quan hệ của các nhân vật với nhau. Đằng sau những câu trao đổi qua lại liên tiếp giữa các nhân vật, vai trò người kể chuyện mờ hẳn đi. Hơn nữa, như đã nói, cuốn tiểu thuyết vốn gồm nhiều tuyến cốt truyện, song chỉ có duy nhất một tuyến cốt truyện tình yêu, ở màn đầu gặp gỡ, là được trần thuật trực tiếp, kỳ dư đều mang hình thức thông báo của người đưa tin. Để làm cho ngữ điệu bớt tẻ nhạt, người viết biết khéo léo biến thông báo-đơn thoại thành đối thoại theo hai tầng ngữ cảnh: đối thoại giữa người đưa tin và người nhận tin, và đối thoại giữa người đưa tin và những người chung cảnh ngộ. Chú trọng trần thuật bằng đối thoại và và hoán chuyển luân lưu vị trí đối thoại (trực tiếp↔gián tiếp), thay đổi khẩu khí lời nói, tác phẩm bổ cứu được nhiều chỗ yếu trong xây dựng tính cách, làm cho tính cách nhân vật có dịp cọ xát, bộc lộ ra trên tiến trình của tiểu thuyết. Ở chỗ này Giai nhân kỳ ngộ diễn ca lại biết tiếp thu ưu điểm của nguyên tác, nhờ đó bù lại những khiếm khuyết trong phần ngôn ngữ tỏ tình. Nhân vật Ba Ninh Lưu nữ sử có cốt cách sinh động hơn U Lan và Hồng Liên, chỉ là do nàng đã có 'tiếng nói' riêng trong cuộc chuyện trò với Tán Sĩ. Biết mình bệnh nặng sắp chết, nhà nữ ái quốc từng trải ấy vẫn thích cười đùa, tranh nhau hơn kém một con cá câu được cùng chàng trai Nhật Bản: 'Trong khi cười nói thừa ưa/ Giật lên thả xuống đã thừa mấy phen/ Mặt trời chân núi vừa chen/ So đi điểm lại chàng hèn một đuôi / Nàng càng rặc rặc nói cười/ Giục về chàng cứ rốn ngồi lại câu/ Cầm cần chăm chỉ trước đầu / Nàng càng cợt nói lắm câu trò cười / Thình lình một tấm trắng tươi / Lùng bùng mặt nước, chơi vơi đầu cành / Đo ra hai thước gần gần / Giật mình nàng cũng ngại ngần thở than / Chàng rằng: 'Ấy cũng du tang / Việc đời ai tính vội vàng đặng chưa?'/ Nàng rằng: 'Chàng ngạo lắm ư?/ Đếm ra thiếp đã chịu thua con nào?'/ Chàng rằng: ''Xem lại thử nao / Cá tôi lớn gộc, nàng sao dám bì?' / Nàng rằng: 'Thiếp ước khi thì / Đếm đuôi, ai có đếm gì nhỏ to / Vả chăng đem lại mà so / Cá đây dù nhỏ, thơm tho ngọt ngào / Cá chàng dù lớn thế nào / Sắc không đẹp đẽ, thịt nào tốt tươi' (câu 2342-2365). Nhân vật Mân Lê khi xuất hiện trước Tán Sĩ và Hồng Liên có lời lẽ đáo để đến là chanh chua, vì tưởng lầm Hồng Liên vừa mới thoát thân sang Mỹ đã giở trò tán tỉnh Tán Sĩ mà quên mất bạn: 'Nàng liền đỏ mặt nói ngay: / 'Thiếp đà biết rõ hẳn đây vậy mà / Tự do là của của bà / Còn ai dám tới gạn tra cho cùng / Vả chăng nhan sắc lạnh lùng / Tài khôn, trí khéo, miệng hùng, lưỡi hay / Gái ngoan ít kẻ sánh tày / Tiếc vì một tí miệng hay dối lòng / Bạn bè chẳng chút thủy chung / Xin bà hãy hỏi trong vòng tấc gang / Xưa kia đi với U Lan / Chung tàu vượt biển Tây Ban những ngày / Trong tàu thiếp lấy bụng ngay / Đem ra trò chuyện, bà đay đủ đường / Đến khi kể chuyện Đông Dương / Bà liền quay mặt kiếm đường nói ngơ / Tưởng bà còn nhớ sờ sờ / Tưởng bà bụng cũng tưởng mơ đến nàng / Xưa sao thề thốt vội vàng / Cắt đầu uống máu, một đàng tử sinh / Bây giờ bà thoát đặng mình / Tìm nơi kiếm chốn, vui tình người thương / Tháng ngày dong dãi đủ đường / Mặc ai sống chết, mơ màng gì đâu / Nghĩ trong thiếp nói mấy câu / Bà còn ngoẻo cổ, lắc đầu gì không?' / Hồng Liên mặt tía tai hồng / Mình run lẩy bẩy miệng không ra lời' (Câu 4778-4805). Biết khắc họa tính nết nhân vật bằng ngôn ngữ, Phan Châu Trinh đã bổ sung cho truyện nôm trước ông một mảng lời ăn tiếng nói thường vẫn mang tính khuôn sáo quá nặng - lời ăn tiếng nói trong sinh hoạt hàng ngày của những nhân vật chính diện.
Về tả cảnh tả người cũng vậy, lắm khi Phan Châu Trinh đã từ bỏ ước lệ để kể chuyện thực. Ngòi bút ông tỏ ra sinh sắc hẳn so với truyện nôm. Gương mặt Ba Ninh Lưu nữ sử đau ốm, tuy là chấm phá, không còn mờ ảo như một U Lan: 'Chàng ngồi liếc mắt nhìn coi / Tác chừng hăm tám, con người bảnh bao / Da trong, răng trắng, mắt sâu / Hai cồn má tóp, phía sau tóc cuồn / Xem ra nét mặt như buồn' (câu 2254-2259). Ngay cả trong tuyến cốt truyện tình yêu, cách thể hiện bản tính vụng về của nhân vật Tán Sĩ có mặt quả còn chưa đạt nhưng cũng có mặt không kém ý nhị. Những giọt nước mắt chàng tuôn rơi trước hai người đẹp vì cám cảnh về vận nước, và hành vi chữa thẹn sau đấy, dẫu hơi khôi hài, không thể nói là giả tạo: 'Trong khi an ủi một hai / Tình kia nghĩa nọ rạch ròi đôi bên / Ngồi gần lại có Hồng Liên / Lân la nàng cũng tới bên vỗ về / Chàng càng giọt ngọc ủ ê / Càng lau càng chảy dầm dề như chan / Trong khi dào dã ngổn ngang / Tình cờ một giọt thấm tràng áo the / Ngại ngùng nửa thẹn nửa e / Cầm khăn chàng mới lăm le gần nàng / Nàng càng cười nói vội vàng: / 'Lụy chàng nhỏ áo ngàn vàng khôn mua...' (câu 923-934). Hay cái cảnh chàng lúng túng vì nằm mơ thấy mình gặp nạn được U Lan đến cứu, tỉnh dậy lại một phen thảng thốt vì bị con chim vẹt nói giễu, rất đúng với một chàng trai phương Đông nhút nhát trước tình yêu: 'Đạn bay tứ phía vo ve / Mình liền bị đạn dầm dề máu rơi / Mê man tối đất tối trời / Hóp hoi còn nuối chút hơi một mình / Gái đâu chạy tới thình lình / Tay cầm thập tự xông mình đạn tên / Vội vàng đỡ xuống bồng lên / Kêu rằng: 'Thiếp hãy xin yên lòng chàng / Việc chi sợ sệt vội vàng?' / Bỗng không quân giặc đã tan đi rồi / Giật mình mở mắt ra coi / U Lan nàng đã chực ngồi một bên / Thơ mơ vừa nghĩ vừa nhìn / Giây lâu mới biết là mình chiêm bao / Mồ hôi chảy tháo dều dào / Trong lòng hồi hộp cất đầu ngó ra / Vừng đông bóng đã chói lòa / Vội vàng sửa áo bước ra chuyện trò / Thình lình một tiếng kêu to: / 'Chàng đừng bỏ thiếp măn mo mối sầu' / Thất kinh chàng mới quay đầu / Thấy con anh võ nuôi lâu trong lồng' (câu 1981-1502). Trong phép phối cảnh, nói chung truyện nôm thường dùng nét bút tượng trưng, bởi cảnh chỉ là để tô đậm tâm thái nhân vật chứ không thực sự hiện diện. Nhưng Giai nhân kỳ ngộ lại là câu chuyện xẩy ra trên những địa danh cụ thể, sự việc dẫn dắt có lớp lang, trình tự: lần đầu gặp nhau trên lầu State House ở Philadelphia, lần sau lại đi thuyền trên sông Delaware, tình cờ gặp nhau ở tận hồ Erie phía Bắc Pensylvania... Việc dàn dựng cảnh vật của tác giả hẳn nhiên phải phục vụ yêu cầu của dòng chảy tự sự, là 'cảnh này' trong mắt người đọc, không thể là những biểu tượng mơ hồ, lắp vào đâu cũng được. Phan Châu Trinh không cưỡng lại chiều hướng của nguyên tác và nhờ đó, một phần cảnh trí trong Giai nhân kỳ ngộ diễn ca 'đã theo xu hướng giảm thiểu tính phiếm định'13. Chúng không những giảm đi chức năng thiên nhiên-tấm gương soi như trong truyện nôm mà trái lại, đã góp phần đưa cuốn truyện đến gần với bút pháp hiện thực. Nơi U Lan và Tán Sĩ gặp nhau là một nơi cũng có cây cỏ xanh rì như nơi Kim Trọng gặp Thúy Kiều, nhưng không còn là bức tranh tâm lý 'nửa tỉnh nửa mê' trong tâm hồn hai con người bắt đầu yêu, mà bày rõ trước mắt, từ xa đến gần, từng vật một:
237 Chàng ngồi ngắm cảnh gia viên,
Sông Đề quanh trước, sau hiên Táo Kỳ.
Hai bên cây cỏ xanh rì,
Bông đào, tơ liễu sâm si quanh tường.
Lồng hoa treo cạnh cửa gương,
Một con anh võ trắng dường tuyết trong.
Vách treo liễn đối hai dòng,
Phụng hoàng, lan huệ ngụ trong tính tình.
Ngọc tiêu gác để trên bình,
246 Nguyệt cầm mỗi vẻ phong tranh đủ điều.
Phong cảnh núi non khi đoàn người cứu cha U Lan chạy trốn từ Tây Ban Nha sang Ý hiện ra còn thực hơn, đúng là núi non một vùng đất có tên trên bản đồ sát vùng biên giới nước Ý:
4719. Kéo nhau vội vã ruổi rong,
Trèo đèo lội vũng chạy vòng phía Tây.
Chập chồng núi dựng như xây,
Luồng mù ngút đất, vầng mây khỏa trời.
Tứ bề vắng gió bặt hơi,
Vượn ca dắng dỏi, chim trơi lộn nhào.
Dò lần tới đỉnh núi cao,
Dòm sông Vô Lãng lao xao mấy vòng.
Lập lò khúc vạy khúc cong,
Như con rắn trắng lộn vòng cỏ non.
Trông về phía Bắc chân non,
Một dây xe lửa chạy vòng như bay.
Quanh co khúc vạy khúc ngay,
4732. Như hình rết tía leo dây lằng quằng.
Cố gắng đổi mới của Phan Châu Trinh càng thấy rõ trong thủ pháp kể chuyện phiêu lưu, một loại hình tiểu thuyết rất giàu chất 'truyện' và chủ yếu là mang hình thức chuyện kể - 'Một tiểu thuyết phiêu lưu, đó trước hết là một chuyện kể có chất truyện hơn những chuyện kể khác, một sự kiện có tính sự kiện hơn những sự kiện khác nằm trong một bản tường thuật mẫu mực, một tiểu thuyết trong đó chất liệu tự sự đầu tiên nổi lên trong tình trạng thô nguyên, như là dung nham của núi lửa, một chuyện nó chỉ là chuyện dành cho cái thú vui kể lại - tóm lại là một 'hội lễ kể chuyện' (Ariel Denis)14. Phan đã biết chuyển từ giọng kể 'nói thay nhân vật' sang lời trần thuật khách quan các sự kiện xẩy ra như nó có, chú trọng tính hành động của câu chuyện được trần thuật. Chuyện U Lan, Hồng Liên và Phạm Khanh phục kích bắt chúa ngục cứu cha U Lan là cả một hoạt cảnh mang tiết tấu dồn dập gấp gáp, làm tăng hưng phấn: 'Xe vừa chạy tới đùng đùng / Thình lình tiếng súng lạnh lùng hỡi ơi / Thất kinh va mới van trời / Năm ba phát súng nổ bồi sấm vang / Lính hầu nhào ngã ra đàng / Ba người nổ súng buông cương đuổi liều / Va thì phách lạc hồn xiêu / Quơ roi thét ngựa đuổi liều chạy bay / Đụng cầu xe phải dừng ngay / Va liền sảng sốt loay quay nực cười / Nàng Lan lớn tiếng kêu người: / 'Quân ta tiếp tới giết loài gian hung!' / Lính nhào xuống nước đùng đùng / Bỏ xe va mới hãi hùng chạy ra / Phạm Khanh nhảy tốc theo va / Thích cho một đấm lăn ra giữa đàng / U Lan chạy lại vội vàng / Bắt va bịt mắt trói ràng gốc cây' (Câu 4573-4590).
Chuyện cả bọn U Lan, Hồng Liên, Phạm Khanh và cha U Lan trên đường chạy trốn nấp trên gác một ngôi nhà hoang, quân lính chúa ngục đuổi theo gặp mưa cũng chạy vào ngôi nhà đó, có dạng thức một màn bi hài kịch gồm nhiều lớp, với nhiều vai diễn, nhiều góc nhìn, phập phồng hồi hộp được đẩy đến cao trào, hình ảnh, màu sắc, tiếng động, lời nói... được huy động tổng hợp, giọng đối thoại luôn luôn xen ngang, đế vào giọng người kể: 'Vội vàng bỏ ngựa đi không / Một trời mây phủ gió lồng mưa to / Mập mờ nẻo tắt đàng co /Bước cao bước thấp tay mò chân băng / Đêm khuya đói khát ngã lăn / Bên đường sực thấy nhà tranh lồ lồ / Kéo nhau mừng rỡ chạy vô / Trông quanh ngó quất là chồ ngựa hư / Bốn bề chẳng có dân cư / Nhìn nhau sảng sốt, bây chừ đi đâu? / Kẻ leo người đỡ lên lầu / Nhện giăng khỏa mặt, bụi sâu tấp bàn / Xúm nhau ngả dọc nằm ngang / Phạm Khanh ngó cổ ra đàng trông xem / Đầu rừng thấy lửa nhấp nhem / Đói lòng nghỉ nổi máu thèm kiếm ăn / Xuống lầu kiếm lối chạy băng / Ba người đói lử ngủ lăn trên lầu / Thình lình tiếng sét đâu đâu / giật mình thức dậy cất đầu ngó ra / Tứ bề sấm chớp sáng lòa/ Gió ầm đổ núi mưa òa nghiêng sông / Trong khi mưa gió đùng đùng / Tiếng người tiếng ngựa lùng bùng lẫn vang / Thiếp liền ngắt nhỏ U Lan: / 'Hay là quân nó băng ngàn tới đây?' / Trước sân chợt thấy một dây / Ồn ào kêu réo: 'Được đây bớ làng!' / Thiếp nghe trong bụng không an / Lạnh mình run sợ, nhộn nhàng biết bao / Hơn vài mươi đứa xông vào / Một thằng cầm đuốc chào rào la quay: / 'Quá chừng quá đỗi là may / Lò kia củi đấy đốt ngay ta ngồi' / Củi cây un đốt một hồi / Hong quần sưởi áo, đứa ngồi đứa đi / Thiếp đè [đè chừng] nó chẳng biết chi / Khốn vì khói phủ li bì tối tăm / Ba người thim thíp lặng nằm / Khói chun đầy mũi, hằm hằm muốn ho / Nín hơi chẳng dám thở to / Mím môi đậy mũi bụi tro đầy mình / Thiếp than mấy tiếng rập rình: / 'Nếu thân chết khói thà mình chết gươm' / U Lan nhìn thiếp gườm gườm: / 'Đem thân thí với quân phàm ích chi / Chẳng lâu chúng nó cũng đi / Chúng ta rán chịu tí ti hại gì' / Dưới lầu khói phủ li bì / Bực hơi khôn thở nằm lì xóp ve / Tướng quân bức tức khôn dè / Xẩy hơi nhảy mũi, nó nghe tức thì / Đứa rằng: 'Cái tiếng chi chi? / Nghe như nó dội 'hắc xì' trên đây' / Đứa rằng: 'Ai ở chi đây / Hay là những tiếng chuột bầy đó chi?' / Nói rồi đứa quái, đứa nghi / Đứa thì cười giỡn bảo: 'Đi cho rồi' / Đứa thì bảo: 'Hãy rốn ngồi / Lên xem cho kỹ, xem rồi sẽ đi' / Lao nhao tìm kiếm một khi / Đứa rằng: 'Đố chú kiếm gì đặng thang' / Đứa rằng: 'Nếu chẳng có thang / Thì ai có cánh bay ngang qua lầu?' / Cãi đi cãi lại giờ lâu / Mưa vừa ngớt hột trời hầu rạng đông / Kéo nhau ra cửa đứng trông / Ra đi lại đoán ước phòng mấy câu: / 'Phía Nam giặc dã đã lâu / Lũ này chắc cũng trốn đầu đó thôi / Chạy chân được mấy tăm hơi' / Giục quân thét ngựa tếch vời đuổi theo / Thương thay trong lúc hiểm nghèo / Ai ngờ miệng cọp thịt treo mà còn' (Câu 4605-4678). Với những trường đoạn như vừa dẫn, không khí truyện nôm cổ xưa đã hầu như biến mất, hơi hướng tiểu thuyết mới đã xuất lộ.
*
Theo Trần Hải Yến, trong Giai nhân kỳ ngộ diễn ca còn 'có mặt hàng loạt những từ ngữ 'lạ mắt lạ tai' đối với một truyện nôm, như: độc lập, tự do, phú cường, công thương, hiến pháp, pháp luật, thuộc địa, đảng nhỏ, phe to, chí tự tân, duy tân, cộng hòa, dân chủ, dân quyền, lập hiến, liên bang, hiệp ước, nghị luận, nghị viên, nghị trường, nghị sĩ, bầu cử, quốc quyền, quốc dân, chính phủ, diễn thuyết, hòa bình, hư vô, xã hội... Sự có mặt, và có mặt với tần số cao của những ngôn từ này đã bổ sung cho vốn từ ngữ dân tộc một số lượng đáng kể những thuật ngữ, khái niệm chính trị, xã hội và thực sự tạo ra một bầu không khí mới mẻ cho tác phẩm'15. Đúng vậy. Chúng tôi chỉ muốn thêm: về mặt nghệ thuật truyện tự sự, đóng góp mới không nhất thiết lúc nào cũng là thành công. Xem ra, tuyến tự sự lịch sử của Giai nhân kỳ ngộ diễn ca không có gì đột xuất cho lắm. Phải đổi sang một giọng kể thiếu vắng cốt truyện mà muốn giữ được sự cuốn hút là điều rất khó. Sự kiện lịch sử chắp nối rời rạc không sáng sủa, tên người tên đất lại bị Hán hóa, đã xa lạ càng trở nên rối rắm đối với độc giả. Thêm vào đấy là độ dài quá khổ của tác phẩm làm người diễn ca đuối sức. Nhiều lúc ông đành chắp vần, dùng chữ gượng ép, biến câu thơ thành vè: 'Đầu triều có gã Phong Lôi / Đứng lên diễn thuyết một hồi rất ghê' (câu 401-402); 'Hay đâu chuốc dữ cưu hờn / Làm cho đến nỗi chánh quờn phân vân' (câu 465-466); 'Có ông La Đẩu tướng quân / Lòng dân gắm ghé định phần thôi tôn' (câu 507-508); 'Vả chăng tạo hoá biết suy / Trong vòng họa phước có khi gặp thì / Rủi mà chẳng gặp thời ky' (câu 951-953); 'Làm cho các nước xúm ùa / Phá ngang bờ cản đạp đùa giậu ngăn' (câu 1155-1156); 'Chúa tôi cũi lại kinh thiềng / Mấy trăm tướng sĩ lưu biên một lần' (câu 1199-1200); 'Rằng kia mấy cụm dùm dào / Của ông Cao tiết trồng bên mộ ngài' (câu 1848-1849); 'Nghe lời nàng mới liền thưa / Bệnh tôi chứng gốc có bưa đâu là' (câu 2270-2271); 'Vậy thì sống chết chiêm bao / Vui nào lại có buồn nao bao giờ' (câu 2710-2711); 'Lòng đây còn chút ngại ngàng / Chẳng hay đêm vắng sao chàng tới chi?' (câu 2916-2917); 'Tác chừng ba bốn ba lăm / Môi hồng răng trắng êm đằm trẻo trong' (câu 4754-4755); ); 'Còn ngoài làng xã dân tình / Sưu xiêu thuế dạt tìm tòi miếng ăn' (câu 6304-6305)...
Một số trường hợp Phan Châu Trinh bất đắc dĩ phải 'độn' vào thơ những từ ngữ tán thán hoặc trợ từ cuối câu, có nguy cơ đẩy tác phẩm ra khỏi hàng ngũ truyện nôm bác học: 'Phải toan rước lập vua hiền / Quân quyền lập hiến vững bền biết bao' (câu 521-522); 'Làm cho dân đói chết quay / Hơn tám mươi vạn đắng cay lạ nhường' (câu 697-698); 'Trẻ trong tan tác tứ bề / Mỗi năm bảy vạn ê hề biết bao' (câu 711-712); 'Vậy nên chí sĩ thở than / Ngày đêm gắng gổ Ái Lan đó mà' (câu 841-842); 'Vừa chầu đánh đuốc chơi đêm / Nhìn nhau khóc lóc có thêm chi mà' (câu 1329-1330); 'Được thơ ngần ngại lắm thay / Mở ra chàng mới xem ngay tức thì / Xem đi xem lại một khi' (câu 1695-1697); 'Người rằng: Thực có như lời / Cõi trần đặng mấy Chúa trời vậy a' (câu 1894-1895); 'Còn như chức trọng quyền to / Lòng tôi có chút màng mơ chi mà' (câu 1972-1973); 'Mong cho dòng giống sum vầy / Lòng tôi có chút thí này mà thôi' (câu 1978-1979); 'Người đời lắm tiếng mỉa mai / Rằng ta bỏ nước giúp người vậy a / Trượng phu mấy kẻ những là / Xưa nay ai nỡ sa đà đắm vui' (câu 1886-1889); 'Ta không phá được Ba Lan / Mặt nào trông thấy giang san nữa mà' (câu 2024-2025); 'Giờ lâu ngồi dửng dừng dưng / Hỏi sao nàng khóc lừng chừng lắm thôi' (câu 3134-3135); 'Hồng Liên nghe nói cười bùng / Ông này nói thực lạ lùng lắm thôi / Vậy xin nói nốt cho rồi' (câu 5628-5630)...
Cái ưu thế dùng phương ngữ song âm tiết độc đáo bị lạm dụng trong một truyện thơ dài cũng nhiều khi phản lại tác giả, chữ dùng trở nên thô thiển, mất nghĩa: vụn vằn, lày quày, thút mút, nồng nà, xơn xao, dề dầm, mát man, lấm liếc, tân mân, bao lao, cặn còi, gấm ghé, bĩ bàng, giải giào, dùm dào, chào rào, xải xi, bùi hùi, vân vỉ, ngà ngầy, um sùm, hườm hườm, ê ủ, hãi hào, kè nè, lý lê, rà rả, quà lòa, trơ ngơ, xớp xới, hỡi hờ, le lăm, ùy òa, phông lông, thăn thỉ, lơ lẩn, chàm bàm, vỉ vân, lèo hèo, tà la, lui hui... Nhưng lý do xác thiết hơn cả là Giai nhân kỳ ngộ diễn ca chung quy đã không gặp thời của nó - ra đời ở Pháp và trong một thời gian lâu không có điều kiện công bố, trong khi truyện thơ ở trong nước thì đã đóng xong nhiệm vụ lịch sử, đang bị thay thế bởi tiểu thuyết văn xuôi. Đối với lịch sử văn học, Giai nhân kỳ ngộ diễn ca có giá trị một thông điệp về đòi hỏi chuyển hướng toàn diện quy tắc thẩm mỹ của thể truyện trong đời sống văn học dân tộc. Ở thời điểm những năm 10 thế kỷ XX nhà diễn ca Phan Châu Trinh xứng đáng được đánh giá cao bởi sự cố gắng đáp ứng đòi hỏi đó và tác phẩm của ông còn đi xa hơn nhiều truyện văn xuôi chương hồi xuất hiện tại nước nhà trong cùng thời đoạn. Chẳng may, ngoài tính bảo thủ của bản thân thể loại cản trở, tình thế chính trị ngặt nghèo đã không cho phép ông hoàn tất công việc 'đổi mới'. Ông chỉ mới đi được hai phần ba trên con đường thử nghiệm.
Tác giả Nguyễn Huệ Chi
-------------------------
Chú thích:
(12) Đoạn này trong bản dịch chữ Hán của Lương Khải Siêu như sau: U Lan chiết bạch tường vi nhất đóa, bá ư Tán Sĩ chi khâm nhi hô viết: 'Lang quân! Thử hoa tuy điêu tàn, vật tương khí nhi khứ'. Tán sĩ đối nhi tiếu viết: 'Bộc cố tích hoa nhân dã. Đãn giải ngữ chi hoa, bất tri dục phi hướng thùy gia nhĩ' (Hồi 2). Dịch nghĩa: U Lan bẻ một đóa tường vi trắng, cài lên cổ áo Tán Sĩ rồi nói rằng: 'Chàng ơi! Dẫu hoa kia có tàn úa cũng đừng bỏ nhau mà đi nhé'. Tán Sĩ cười đáp: 'Tôi vốn là người tiếc hoa, chỉ xét xem bông hoa biết nói, không biết muốn bay đến nhà ai đây?'. Phan Châu Trinh đã đổi câu 'Tôi vốn là người tiếc hoa' thành: 'Nàng thiệt kẻ chung tình yêu hoa' còn các ý sau giữ nguyên. Dù đổi 'tôi' sang 'nàng' theo chúng tôi cũng đều rất gượng.