Chủ nhật, 22/12/2024,


Xót xa lòng Mẹ... (28/08/2009) 

CÁI ROI NGÀY ẤY

 

Ngày nào con nghịch, con chơi

Bỏ nhà đi hết một hơi tối ngày

Làn roi rơi xuống thân gầy

Làm đau tay mẹ làm cay mắt bà

 

Bây giờ con ở đâu xa

Nắm xương không cửa không nhà mãi đi

Trường Sơn một dải xanh rì

Đất đen, đất đỏ, đất gì chôn con.

 

Chân run, quờ chiếc gậy mòn

Sợ cầm phải cái roi còn đâu đây.

 

Đinh Phạm Thái

(Thơ Hà Tĩnh- Thế kỉ XX)

 

 

 

 

Tứ thơ sáng tạo, độc đáo cùng với việc vận dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống, bài thơ “Cái roi ngày ấy” của Đinh Phạm Thái đã diễn tả thật cảm động về tình mẫu tử đẹp đẽ, sâu nặng, thiêng liêng của bà mẹ liệt sĩ có con hi sinh trong chiến tranh mấy mươi năm về trước.

 

Cảm xúc trữ tình hoá thân vào người mẹ được thấm đượm toàn bài cũng như từng khổ thơ đều dựa trên cái nền tự sự. Tuổi già thường nặng ưu tư, hay nhớ về kỉ niệm buồn vui trong quá khứ. Cậu bé con mẹ “ngày nào” chắc là học sinh lớp ba, lớp bốn trường làng những năm bảy mươi thế kỉ trước. Tuổi ấy hiếu động và rất nghịch ngợm. Cái tội “Bỏ nhà đi hết một hơi tối ngày” phải được “dạy đến nơi” để nhớ, để chừa. Nếu không, hôm sau lại bỏ ăn trưa, đua bạn đi xa suốt ngày, chơi những trò nghịch dại trèo cây, bơi lội tắm sông, tắm hồ… nguy hiểm thì sao? Bài học kinh nghiệm “Thương con, cho đòn cho roi” phải được “thực thi”. Vì lo, vì cần dạy mà phải đánh, đánh bằng thứ roi mót, nhỏ thôi; mà đánh thì bà và mẹ lại lại thương lắm, xót lắm: “Làn roi rơi xuống thân gầy/ Làm đau tay mẹ làm cay mắt bà”.

 

Dạy con thời ấy bằng những trận đòn roi như vậy là chuyện thường tình. Giá như thuận cảnh, con mẹ bây giờ đã là người đàn ông trưởng thành, vợ con đề huề, hiếu đễ, phụng dưỡng bố mẹ già… Mẹ có nhớ lại thì cũng là một kỉ niệm vui, tự hào… Nhưng giờ đây, sẽ là một bi kịch triền miên. Trong dòng hồi ức của mẹ đã đượm một nỗi buồn. Chữ “rơi” là nhã ngữ, dùng để tránh, không nói là làn roi quất, làn roi đánh, cho… đỡ đau lòng hơn; chữ “thân gầy” cũng đã chứa đựng bao buồn thương, tội nghiệp. Nó như báo trước cái thực tại nghiệt ngã, đau xót. Qua tuổi thiếu niên, con mẹ lớn lên là một chàng thanh niên tuấn tú. Gặp buổi nước nhà binh lửa, con lên đường vào Nam đánh giặc. Nhưng giặc tan thì con đã mãi mãi không về với mẹ! Còn gì đau đớn hơn cái nghịch cảnh như câu ca ai oán thuở nào: “Lá vàng còn ở trên cây/ Lá xanh rụng mất cực thay, hỡi Trời!”. Dù là con đã vì nghĩa lớn mà hi sinh, nhưng lẽ đời là “Sống cái nhà, già cái mồ”. Đằng này con của mẹ thì một nắm di cốt vẫn còn “không cửa không nhà mãi đi”… rồi không biết có được chôn cất ở một nơi nào đó giữa bạt ngàn “Trường Sơn một dải xanh rì”?

 

Những câu thơ lục bát với nhịp chẵn, không cách tân, có khả năng thuật chuyện hồi ức gọn rõ, lại chứng tỏ hiệu lực diễn tả chiều sâu nội tâm thật tinh tế… Ở khổ thứ hai đã có từ hỏi và thực chất là những câu hỏi: “con ở đâu xa”, “…đất gì chôn con”. Nhưng không đánh dấu hỏi, bởi vì, bà mẹ già nơi làng quê biết hỏi vào đâu, biết hỏi vào ai bây giờ! Hỏi cũng chỉ là tự hỏi vào cõi lòng đấy thôi. Thời gian dằng dặc, không gian mịt mờ, tất cả đều vời vợi, làm sao có thể mách bảo để đưa con về với mẹ, với quê hương bản quán cho có “mồ yên mả đẹp” như đời sống tâm linh ở cõi thế gian này. Một nguyện vọng sâu xa, chính đáng của tình cảm thiêng liêng mà thành ra nỗi niềm đau đáu, vô vọng.

 

Khổ thơ kết gọn lại chỉ là một cặp câu và cách phục bút tài tình đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng cùng cái tứ bất ngờ, độc đáo để cho mạch cảm xúc được đẩy lên cung bậc cao nhất. Mở đầu là cái roi thực đánh con “ngày ấy” và kết thúc là cái roi ảo làm đau đớn mẹ bây giờ và mãi mãi. Với ai thì “Năm tháng khuây dần chuyện xót đau”(Vũ Cao), còn với mẹ, nó là kết quả tích tụ của nỗi đau tinh thần nhức nhối. Giờ đây, mẹ đã già nua: mắt mờ, chân yếu. Bệnh nội thương khiến mẹ cứ như trong mộng du- vô thức, cứ như thấy mình có “tội” với con, để đến nỗi mỗi lần “quờ chân tìm chiếc gậy mòn” lại cứ “sợ cầm phải cái roi còn đâu đây”.

 

Chao ôi! Con mẹ đã trọn chữ Trung để bảo toàn chữ Hiếu, chưa báo đáp ân sâu nghĩa nặng của đấng sinh thành, xin mẹ đừng buồn phiền, day dứt về chuyện cái roi “ngày ấy” cho khổ thân già. Cao đẹp thay là tấm lòng người Mẹ Việt Nam ta!

 

Bài thơ không thấy tiếng khóc vì “nước mắt lặn vào trong”. Nhưng bạn đọc thì ai cũng động thấu tâm can và rưng lệ…Với năm cặp câu lục bát, hàm súc như một bàì thơ Đường, nó có sức lay động và ám ảnh mãi tâm hồn ta về nỗi đau chiến tranh của những bà mẹ, của những gia đình liệt sĩ, và là của chung đất nước, dù “Lửa chiến tranh tắt đã lâu rồi”, dù tất cả mọi nhà, mọi người đang an hưởng cuộc sống yên bình. Viết đến đây, tôi xin dẫn thơ của tiền nhân truyền lại: “Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử/ Tử ư quốc sự tử do sinh”. Nghĩa là: Người đời xưa nay có ai là không chết. Nhưng chết mà vì nước thì chết vẫn còn như sống mãi. Để nói rằng, những người liệt sĩ, con của các Mẹ: “Thác là thể phách, còn là tinh anh”(Nguyễn Du)!

 

Xét trên một số phương diện chủ yếu từ tứ thơ, ngôn ngữ thơ, tình cảm thơ và độ cảm xúc cho đến ý nghĩa nhân văn, tác dụng xã hội… bài thơ là một tác phẩm xuất sắc, đã xứng đáng đoạt giải nhì, không có giải nhất, cuộc thi thơ lục bát của báo Giáo dục và Thời đại năm 1998.

 

 

Phạm Văn Chữ

ĐT: 0915.807028

Email: phamvanchu@gmail.com

 

 

Tác giả Đinh Phạm Thái nguyên là giảng viên Trường ĐH Bách khoa- HN, quê ở xã Sơn Hoà- Hương Sơn- Hà Tĩnh. Ông cho biết: Bài thơ có cơ sở  thực tế từ câu chuyện của gia đình ông. Hồi  chiến tranh chống Mỹ, ông có người cháu, con anh ruột ở quê nhà, rất ngoan và học rất giỏi; học xong cấp 3 (THPT) được Nhà nước cho sang Liên xô du học. Nhưng cháu đã viết đơn tình nguyện xin tạm gác chuyện đi học để lên đường đánh Mỹ. Sau mấy tháng luyện tập, cháu đã “đi suốt một hơi”, vào Nam chiến đấu cho đến tận ngày hy sinh. Cho đến nay, 1998, sau bao nhiêu năm, gia đình đã tìm mọi cách nhưng vẫn chưa đưa được phần mộ của cháu về quê nhà. Bà chị dâu của ông, đã già lắm, cứ đêm ngày thổn thức vì nỗi này.

 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
  Phạm Văn Tự  - thcsts@gmail.com - 02193846208 - Tam Sơn - Quản Bạ - Hà Giang  (Ngày 31/08/2009 09:48:14 AM)
"Cái roi ngày ấy" vẫn còn/ Ngày ngày mỏi mắt mong con trở về/ Nhớ con... lòng dạ tái tê/ Con đi thì có..., con về thì không!/ Trường Sơn rừng núi mênh mông/ Rừng bao nhiêu lá...đau lòng... cái roi...!!!
Các bài khác: