Thứ sáu, 26/04/2024,


Truyện Kiều và việc đổi mới câu thơ Lục Bát (11/03/2016) 

Lời BBT: Nhân dịp kỷ niệm 250 năm năm sinh của Đại thi hào Nguyễn Du (1865-2015), nhà nghiên cứu Phạm Đan Quế, mới viết cuốn thứ 18 về Truyện Kiều có nhan đề là Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều (NXB Thanh Niên, 2013), trong đó có chương viết về Truyện Kiều và việc đổi mới câu thơ lục bát. Đây là phần nghiên cứu khá công phu và tỉ mỉ. Tác giả đã gửi cho BBT và muốn được công bố trên Trang website Lục bát Việt Nam.

Trân trọng cảm ơn nhà nghiên cứu Phạm Đan Quế.

 

 

 

I. NHỊP ĐIỆU TRONG THƠ KIỀU

Tính có nhịp điệu, và sự ngắt nhịp liên tục là yếu tố nhận diện của câu thơ, bài thơ và tính thơ nằm ở tính có nhịp điệu cùng sự hiệp vần của nó. Nhịp thơ không chỉ là yếu tố bên ngoài, một yếu tố của hình thức cụ thể cảm tính mà còn có một yếu tố bên trong tạo nên hình thức thơ, hình thức câu thơ, trong đó sự sắp đặt các khổ thơ luôn luôn biểu hiện tương quan giữa các nhịp điệu. Để khám phá cấu trúc nhịp thơ, ta phải đi qua khoảng không vô hình do các bước thơ tạo ra để có những cảm nhận, cảm giác khác nhau về nội dung thông tin và những cảm xúc, biểu cảm tiềm tàng trong đoạn thơ. Nếu ngắt nhịp không hợp lý câu thơ sẽ trở nên ngô nghê, thậm chí vô nghĩa.

Trong thơ lục bát, mỗi dòng thơ thường có vài ba nhịp mà nhịp cuối kết thúc cùng với dòng thơ. Khác với nhịp trong âm nhạc, số âm tiết trong các nhịp thơ không cố định và không nhất thiết phải như nhau, dù thơ lục bát thường là nhịp chẵn. Thơ có một loại đơn vị rất đặc trưng là dòng thơ cũng có khi gọi là câu thơ. Thơ lục bát có hai dòng 6 chữ và 8 chữ mà cách ngắt nhịp thông thường là nhịp chẵn (2/2/2 trong câu lục và 2/2/2/2 trong câu bát). Nhiều câu thơ ngắt nhịp như trên hoàn toàn đảm bảo sự thông suốt về ý nghĩa là do tính chất tương đối ổn định của nhịp đối với thể thơ lục bát đã hình thành trong quá trình xây dựng thể loại thơ qua nhiều thế hệ và từ bao đời nay. Ta có thể nhẩn nha đọc những câu thơ sau theo nhịp điệu đều đều hai chữ một trong những câu như:

0037. Êm đềm trướng rủ màn che,          

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

 2267. Dựng cờ nổi trống lên đường,       

Trúc tơ nối trước, kiệu vàng kéo sau.      

Tuy nhiên vấn đề ngắt nhịp câu thơ không hề đơn giản như nhiều người nghĩ. Sau nhiều năm suy nghĩ về cách ngắt nhịp câu thơ Truyện Kiều, chúng tôi đã thử làm với toàn bộ Truyện Kiều và mạnh dạn nêu ra nhận xét như sau. Trước hết xin bàn về cách ngắt nhịp của mấy câu đầu trong truyện.

Câu thứ nhất Trăm năm trong cõi người ta, theo chúng tôi chỉ có một cách đọc duy nhất 2/4, không nên ngắt thành 2/2/2 là thông thường vì trong cõi đứng riêng là không hợp lý, cõi người ta là một cụm từ không tách riêng ra được, nên không ngắt thành 4/2, càng không thể ngắt thành 3/3… hay vô lý như 1/3/2…

Câu thứ hai Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau có thể có hai cách ngắt nhịp: 2/2/4, 4/4, còn cách ngắt nhịp 4/1/3 hay 4/2/2 cũng đều không hợp lý.

Câu thứ ba Trải qua một cuộc bể dâu cũng có cách ngắt nhịp 2/4 hay 2/1/3. Nếu tách một cuộc riêng ra thành nhịp 2/2/2 thì nhóm hai chữ này không lọn nghĩa, cũng không thể ngắt thành 3/3 hay 1/3/2….

Câu thứ 4: Những điều trông thấy mà đau đớn lòng có thể ngắt nhịp thành 4/1/3, 4/4, tuy cũng có thể 2/2/1/3 hay 2/2/1/2/1 nhưng không thể thành 2/2/2/2, từ láy đau đớn không thể chia cắt.

Câu thứ 5: Lạ gì bỉ sắc tư phong chỉ có một cách ngắt nhịp 2/4, cùng lắm là 2/2/2, nhưng không thể thành 4/2 hay 1/3/2…

Câu thứ 6: Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen chỉ có một cách ngắt nhịp 2/6, nếu ngắt thành 2/2/2/2 hay 4/4 thì không đạt vì 4 chữ má hồng đánh ghen đi liền không có nghĩa gì, không phải là má hồng đánh ghen mà trời xanh có thói quen đánh ghen những khách má hồng.

Nay xin xét nhịp thơ của 20 dòng thơ đầu và 20 dòng thơ cuối của tác phẩm để minh hoạ. Trong ba cách ngắt nhịp ở đây, cách ngắt nhịp đầu (1) là chuẩn nhất, những cách sau có cách được, có cách không hay.

 

CÁC CÁCH NGẮT NHỊP

1

2

3

0001. Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

2/4

2/2/4

 

4/1/3

 

4/4

0003. Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

2/4

4/1/3

2/2/2

2/2/4

 

0005. Lạ gì bỉ sắc tư phong,

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

2/4

2/6

 

 

0007. Cảo thơm lần giở trước đèn,

Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.

2/4

4/4

4/2

4/1/3

2/2/2

0009. Rằng: Năm Gia Tĩnh, triều Minh,

Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.

1/3/2

4/4

4/2

2/2/2/2

 

0011. Có nhà viên ngoại họ Vương,

Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.

4/2

2/6

6

2/4/2

 

0013. Một trai con thứ rốt lòng,

Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.

2/4

4/4

6

2/2/2/2

 

0015. Đầu lòng hai ả tố nga,

Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.

2/4

4/4

2/2/2

2/2/2/2

 

0017. Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

3/3

4/4

1/2/1/2

2/2/2/2

 

0019. Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

1/5

4/4

1/3/2

2/2/2/2

2/2/2

3235. Một nhà phúc lộc gồm hai,

Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần.

2/4

4/4

2/2/2

4/2/2

 

3237. Thừa gia chẳng hết nàng Vân,

Một cây cù mộc, một sân quế hoè.

6

4/4

2/4

2/2/2/2

 

3239. Phong lưu phú quý ai bì,

Vườn xuân một cửa để bia muôn đời.

4/2

4/4

2/2/2

2/2/4

 

3241. Ngẫm hay muôn sự tại trời,

Trời kia đã bắt làm người có thân.

2/4

2/6

2/2/2

6/2

 

2/4/2

3243. Bắt phong trần, phải phong trần,

Cho thanh cao, mới được phần thanh cao.

3/3

3/5

1/2/1/2

3/3/2

 

3245. Có đâu thiên vị người nào,

Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.

6

4/4

2/4

2/2/2/2

 

3247. Có tài mà cậy chi tài,

Chữ tài liền với chữ tai một vần.

2/4

2/4/2

2/1/3

2/2/2/2

 

3249. Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

6

2/6

4/2

2/2/2/2

 

3251. Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

2/4

3/5

4/2

2/1/4

2/2/2

3/3/2

3253. Lời quê chắp nhặt dông dài,

Mua vui cũng được một vài trống canh.

2/4

2/6

2/2/2

2/4/2

 

 

 

Dòng thơ cuối không nên ngắt nhịp thành 4/4 hay 2/2/2/2, cách đọc nhát gừng này không biểu thị ý tứ của câu thơ. Nhìn vào bảng phân tích trên, có thể có người còn có những kiến giải hoặc cách nghĩ khác. Vì đây là một vấn đề còn mới, chưa có tác giả nào đề cập đến, nên chúng tôi nêu ra để quý vị độc giả tham khảo.

 

II. CÁC LOẠI NHỊP THƠ TRONG TRUYỆN KIỀU

1. Về nhịp thơ trong Truyện Kiều, có thể có nhiều cách tiếp cận. Cấu trúc bên ngoài của câu thơ biểu hiện ở cách trình bày nhịp thơ, ở việc sử dụng dấu câu của tác giả và khuôn nhịp chung của thể loại, còn cấu trúc bên trong thể hiện tương quan nội dung mang hình thức nằm bên trong câu thơ khác với cấu trúc bên ngoài của nhịp điệu. Ta chỉ có thể cảm nhận được nhịp thơ một cách rõ ràng khi nghe đọc thơ.

Nhịp là sự nối tiếp và lặp lại một cách đều đặn một hoạt động hay một quá trình nào đó mà trong âm nhạc thì nhịp là sự nối tiếp tuần hoàn các độ dài thời gian bằng nhau làm nền cho nhạc. Lời thơ phân biệt với ngôn ngữ văn xuôi là do có nhịp điệu vì vậy nên có sự gần gũi giữa thơ và âm nhạc mà sự đa dạng của nhịp thơ giống như sự đa dạng của giai điệu trong âm nhạc. Nhịp điệu hay nhịp thơ là “ngôn ngữ đặc biệt của thơ”, nó biểu hiện được bao ý tình mà từ ngữ không thể nói hết được. Nhịp thơ đặc trưng không chỉ bằng sự phân bố của các âm thanh thuộc hai nhóm thanh điệu cao thấp, mà còn bởi độ dãn cách thời gian giữa các chữ. Trong âm nhạc đường nét lên xuống cao thấp – trên dòng kẻ nhạc - của các nốt nhạc được gọi là tuyền luật, còn khoảng cách nhanh chậm giữa các nốt nhạc được gọi là tiết tấu – biểu thị bởi các nốt đen, trắng, móc đơn, móc kép…. Các bản nhạc diễn tấu nghe du dương, êm dịu hay hùng tráng... được đặc trưng bởi hai yếu tố tuyền luật và tiết tấu được gọi là giai điệu. Tương tự với đường nét và màu sắc trong tác phẩm hội hoạ là giai điệu trong nhạc phẩm và nhịp điệu trong thơ. Khi được cảm xúc hoá, cá tính hoá, nhịp thơ sẽ mài sắc cảm nhận, cảm giác của người đọc. Nó tạo ra lượng nghĩa bổ sung cho nghĩa từ vựng và tạo ra sức vang vọng về âm điệu và ngữ nghĩa.

Vận dụng thể thơ lục bát, Nguyễn Du tuy có thuận lợi là thừa hưởng kinh nghiệm sáng tác của ca dao, dân ca và thành tựu của truyện Nôm, nhưng để biểu đạt một nội dung hiện thực rộng lớn trong một thể thơ vốn dễ đơn điệu, nhà thơ phải tự đổi mới, nâng cao trình độ cho thơ lục bát. Ông đã thực hiện sự cách tân và đã thành công mỹ mãn làm cho câu thơ Truyện Kiều mang một dáng vẻ mới, một tầm vóc mới.

Trong thơ lục bát, mỗi dòng thơ thường có vài ba nhịp mà nhịp cuối kết thúc cùng với dòng thơ. Khác với nhịp trong âm nhạc, số âm tiết trong các nhịp thơ không cố định và không nhất thiết phải như nhau dù thơ lục bát thường là nhịp chẵn. Nhịp chẵn đem lại cho câu thơ tính nhịp nhàng uyển chuyển, nhưng cũng chính vì thế dễ dẫn đến sự đơn điệu. Như câu tả ngoại hình Sở Khanh có thể đọc theo cách ngắt nhịp chẵn này (đọc 2 chữ một):

1059. Một chàng vừa trạc thanh xuân,     

Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.

Tuy câu lục ở đây nên theo nhịp 2/4, và câu bát theo nhịp 4/4. Nguyễn Du tuy đổi mới câu thơ bằng cách thay đổi nhịp thơ nhưng không phải là phá vỡ tất cả những gì đã ổn định. Để tạo ra một cấu trúc thơ hoàn toàn mới, nhà thơ vẫn sử dụng nhịp chẵn nhưng bên cạnh đó, ông tạo ra những nhịp chẵn có số lượng chữ lớn hơn bên cạnh những nhịp lẻ. Ông đã thay đổi nhịp thơ, nhưng luôn luôn gắn với nhu cầu biểu đạt hiện thực. Chẳng hạn khi viết về cái chết bất ngờ khi còn xuân sắc của Đạm Tiên, Nguyễn Du dùng nhịp 3/1/4:

Nửa chừng xuân / thoắt / gãy cành thiên hương.

Câu thơ cho ta có cảm giác như Đạm Tiên sớm lìa đời như câu thơ bị ngắt ngang một cách bất thường nếu so nhịp 3/1/4 với nhịp 4/4. Điều này cho phép ta khẳng định vai trò của nhịp trong việc biểu đạt và biểu cảm trong thơ.

 

2. Trong bài NHỊP THƠ (Tạp chí Ngôn ngữ số 1-2004), Tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch khi bàn về nhịp thơ lục bát có nêu ra 5 loại nhịp của câu lục và 5 loại nhịp của câu bát mà hầu hết ông lấy thơ Kiều làm ví dụ như sau:

a) CÂU LỤC:

1. Nhịp 2/2/2 Canh khuya/ thân gái/ dặm trường

2. Nhịp 3/3        Làn thu thuỷ/ nét xuân sơn

3. Nhịp 2/4        Tình yêu/ một mất mười ngờ

                        (Đoàn thị Lam Luyến)

4. Nhịp 1/2/3 Rằng/ Trăm năm/ cũng từ đây

5. Nhịp 2/1/3 Hỏi tên/ rằng/ Mã Giám Sinh

Ở mục này, với nhịp 2/4, ta có thể lấy ngay câu thơ đầu tiên trong Truyện Kiều mà không cần phải lấy từ các tác giả khác:

0001. Trăm năm/ trong cõi người ta

(Câu này không thể ngắt theo nhịp 2/2/2 hay 4/2...)

b) CÂU BÁT:

1. Nhịp 2/2/2/2 Quét sân/ đặt trác/ rửa bình/ thắp nhang

2. Nhịp 4/4        Cạn dòng lá thắm/ dứt đường chim xanh

3. Nhịp 3/3/2 Đĩa dầu vơi / nước mắt đầy/ năm canh

4. Nhịp 2/4/2 Đi về/ này những lối này/ năm xưa

5. Nhịp 2/3/3 Chỉ riêng/ nỗi nhớ em/ là vẹn nguyên

                                    (Đặng Vương Hưng)

Cũng ở trong mục này, với nhịp 2/3/3, ta có thể lấy câu Kiều sau:

0214. Tỉnh ra/ mới biết rằng/ mình chiêm bao.

Ông Nguyễn Thế Lịch còn nêu một số ví dụ ngắt nhịp kỹ hơn như:

c.. Sau mỗi thành phần liệt kê:

Của ta/ trời/ đất/ đêm/ ngày                   Nhịp 2/1/1/1/1

Núi kia/ đồi nọ/ sông này/ của ta.            Nhịp 2/2/2/2

d. Sau mỗi thành phần của câu (Giữa C và V, giữa động từ trung tâm và bổ ngữ, giữa trạng ngữ và nòng cốt câu...):

Núi/ láng giềng/ chim/ bầu bạn                Nhịp 1/2/1/2

Mây/ khách khứa/ nguyệt/ anh tam.        Nhịp 1/2/1/2

                                    (Nguyễn Trãi)

 

3. Chúng tôi rất đồng ý với ông Nguyễn Thế Lịch là không nên ngắt nhịp một cách tuỳ tiện mà không chú ý đến ý nghĩa của các từ, vì như vậy ta sẽ không thấy hết được cái hay của câu thơ Truyện Kiều. Thực ra ở đây, Nguyễn Du đã đổi mới câu thơ bằng nhiều cách thay đổi nhịp thơ mà theo thống kê bước đầu của chúng tôi ngoài 10 loại nhịp mà ông Lịch đã nêu trên đây, Truyện Kiều còn có tới 17 loại nhịp nữa: 3 loại nhịp cho câu lục và 14 loại nhịp nữa cho câu bát. Như vậy tất cả có tới 27 loại nhịp: 8 loại nhịp cho câu lục và 19 loại nhịp cho câu bát.

Cụ thể có thêm những nhịp thơ khác nữa như sau:

a). Câu lục:

1. Nhịp 1/5        0059. Rằng/ Sao trong tiết Thanh minh

2. Nhịp 1/3/2   0009. Rằng/ Năm Gia Tĩnh/ triều Minh

3. Nhịp 4/2        0011. Có nhà Viên ngoại/ họ Vương

b) Câu bát:

1. Nhịp 1/2/1/1/2/1

0050. Thoi/ vàng vó/ rắc / tro/ tiền giấy/ bay

(Về câu này, ta cũng có thể ngắt nhịp theo 4/4 hay 3/1/3/1 hay 1/3/1/3 nhưng không thể theo nhịp 2/2/2/2, vì vàng vó và tiền giấy là những từ kép phải được đọc liền nhau mà chúng tôi đã nói rõ trong bài Thanh minh trong tiết tháng ba ở quyển Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều).

2. Nhịp 1/3/1/3 

2362. Càng/ cay nghiệt lắm/ càng/ oan trái nhiều.

0542. Dám/ xa xôi mặt/ mà/ thưa thớt lòng.

(Những câu này cũng có thể ngắt nhịp 4/4)

3. Nhịp 1/5/2     1984. Hỏi/chàng mới ở chốn nào/ lại chơi.

4. Nhịp 2/6        0006. Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

(Câu này không thể ngắt nhịp thành 2/2/2/2 hay 4/4 hay 2/4/2... vì ngắt nhịp như vậy câu thơ không thuận nghĩa, má hồng đánh ghen thành một nhịp là vô nghĩa, câu thơ phải được hiểu là Trời xanh quen thói đánh ghen má hồng).  

5. Nhịp 2/1/5    

0012. Gia tư/ nghĩ/ cũng thường thường bậc trung.

 (Câu này cũng có thể ngắt nhịp theo 4/4)

1058. Cách lầu/ nghe/ có tiếng đâu hoạ vần

(Câu này cũng có thể ngắt nhịp theo 2/6)

6. Nhịp 2/1/3/2 

1190. Nghĩ thân/ mà/ lại ngậm ngùi/ cho thân.

7. Nhịp 2/2/1/3 

0016. Thuý Kiều/ là chị/ em/ là Thuý Vân.

  (Câu này cũng có thể ngắt nhịp theo 4/4 hay 2/2/2/2)

8. Nhịp 2/4/2     0112. Một lời/ là một vận vào/ khó nghe.

9. Nhịp 2/4/1/1     0596. Oan này/ còn một kêu trời/ nhưng/ xa

 (Câu này cũng có thể ngắt nhịp theo 2/4/2)...

10. Nhịp 3/1/4              

0066. Nửa chừng xuân/ thoắt/ gãy cành thiên hương.

0072. Dấu xe ngựa/ đã/ rêu lờ mờ xanh.

 (Hai câu này có thể ngắt nhịp thành 3/5)

11. Nhịp 3/1/3/1            1212. Cho lăn lóc/ đá/ cho mê mẩn/ đời.

(Câu này cũng có thể ngắt nhịp theo 4/4)

12. Nhịp 3/1/2/2           

1192. Đến phong trần/ cũng/ phong trần/ như ai.

 (Câu này có thể ngắt nhịp thành 3/3/2 hay 3/1/4)

13. Nhịp 4/1/3              

0074. Khéo vô duyên bấy/ là/ mình với ta.

(Câu này cũng có thể ngắt nhịp theo 4/4)

14. Nhịp 4/3/1              

1044. Quạt nồng ấp lạnh/ những ai đó/ giờ?

Các loại nhịp thêm trên đây gồm: 3 loại nhịp bắt đầu bằng một chữ, 6 loại nhịp bắt đầu bằng 2 chữ, 3 loại nhịp bắt đầu bằng 3 chữ và 2 loại nhịp bắt đầu bằng 4 chữ.                        

 

4. Nhân đây xin nêu một ví dụ về một câu thơ ngắt nhịp không đúng sẽ cho ta một cách hiểu nghĩa khác.

Từ là đơn vị hai mặt (âm và nghĩa), trong khi âm tiết chỉ có mặt âm. Từ mang nghĩa nên việc ngắt nhịp thể hiện cách hiểu của người đọc và cảm thụ. Có những cách ngắt nhịp làm cho câu thơ có nghĩa khác đi. Giai thoại sau đây trong Chuyện giải buồn của Huỳnh Tịnh Của những năm đầu thế kỷ 20 cho thấy cách ngắt nhịp không đúng sẽ làm cho câu thơ có nghĩa khác đi như thế nào.

“Ở vùng nọ có một cô gái đẹp lại có tài ăn nói, mở một quán nước bên đường để kén chồng. Các cậu cống, anh đồ nghe tin kéo đến rất đông... Một hôm, có một nho sinh nọ, chẳng biết là định “đánh đường tìm hoa” hay là tình cờ qua đường vào quán nghỉ chân. Cô gái quen như mọi bận, lại giở cái giọng “đàn chị” ra để trêu chọc, nhưng thò ra câu nào đều bị anh chàng đập lại chan chát, thành ra cô ta có phần nao núng. Cuối cùng cô ta bèn đọc một câu:

“Khen cho con/... mắt tinh đời

Anh hùng đoán giữa trần ai mới già.

“Khi đọc cô nhấn mạnh ba tiếng “Khen cho con” nghỉ một tí rồi mới đọc nốt ba tiếng sau thành câu thơ có nghĩa: “Bà khen cho con đấy”. Câu lục đáng lẽ ngắt nhịp 2/4 thì cô lại đổi thành 3/3 như trên. Nho sinh vốn là một thanh niên nhanh trí thấy cô gái có ý xỏ xiên liền “tương kế tựu kế” đọc ngay một câu kiều:

“Vả bây giờ/... mới thấy đây

Mà lòng đã chắc những ngày một hai.

Anh dằn mạnh ba tiếng “Vả bây giờ” để đối lại, ý nói: anh vả cho bây giờ, thì cô gái vốn tinh tế nhận thấy ngay vừa phục vừa thẹn, mặt đỏ au lên, chỉ ngồi lặng thinh mân mê tà áo, chẳng biết trả lời ra sao nữa”.

Câu lục đáng lẽ ngắt nhịp 1/5 tách chữ vả ra như bình thường thì chàng lại ngắt thành nhịp 3/3 nên khi ba chữ đầu được dằn mạnh mới có nghĩa “Anh vả cho bây giờ!”. Vả vốn là một kết từ nói tắt của “Vả lại” biểu thị điều sắp nêu ra là thêm một lẽ thuyết minh khẳng định cái ý chính muốn nói nên đã được chàng đọc tách ra.

Rõ ràng là chỉ với cách ngắt nhịp khác đi, câu thơ đã có một nghĩa khác hẳn.

 

III. HƯ TỪ VÀ NHỊP ĐIỆU CÂU THƠ

1. Hư từ thường bị chi phối bởi đặc trưng về ngữ nghĩa và ngữ pháp nên có những đặc điểm riêng trong việc tham gia tạo nhịp điệu của câu thơ, nhịp điệu không chỉ có sự nhấn mạnh khác nhau vào những đơn vị ngắt quãng mà còn được tạo ra bởi sự ngắt quãng dài ngắn khác nhau nữa. Sự kết hợp với nhau một cách hữu cơ của hai yếu tố trên tạo nên âm hưởng riêng của câu thơ, nên khi bàn đến nhịp điệu câu thơ, người ta thường hay chú trọng đến việc ngắt nhịp, ngoài ra cần xét đến những sắc thái đa dạng giữa các nhịp thơ nữa. Người ta thường dựa vào tính chất hoàn chỉnh tương đối về ý nghĩa nội dung và ngữ pháp của từng bộ phận câu thơ để nói về cách ngắt nhịp câu thơ. Hư từ là loại từ không có ý nghĩa từ vựng chân thực và thường tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với từ khác nên không tham gia vào việc tạo nhịp thơ bằng nội dung từ vựng mà bằng ý nghĩa ngữ pháp của nó.

Tuy không có ý nghĩa thực sự về mặt từ vựng nhưng hư từ tạo nhịp thơ bằng ý nghĩa ngữ pháp như:

 1617. Làm cho cho mệt cho mê,            

Làm cho đau đớn ê chề cho coi.  

Với nhịp 2/2/2 và 2/4/2, hư từ cho kết thúc cho 2 “nhịp 2” đầu câu, và mở đầu cho 3 “nhịp 2” còn lại.

1283. Hải đường mơn mởn cành tơ,        

Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng.

Với nhịp 2/4 và 2/2/2/2 - ba “nhịp 2” sau của câu bát bắt đầu bằng ba chữ càng.

 

2. Thông qua chức năng biểu thị quan hệ ngữ pháp để nhấn mạnh vào nội dung ý nghĩa, hư từ đã góp phần không nhỏ làm cho câu Kiều có âm điệu đa dạng và hấp dẫn. Ta hãy so sánh hai khổ thơ cùng viết về cảnh gia đình đoàn tụ, cảnh Thuý Kiều – Thúc Sinh được sự chấp nhận của Thúc Ông sau vụ kiện ở cửa quan:

1381. Một nhà sum họp trúc mai,            

Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.    

Và đây là cảnh gia đình Vương Ông họp lại sau khi Kiều trở về:

3131. Nhà vừa mở tiệc đoàn viên,          

Hoa soi ngọn đuốc, hồng chen bức là.

Câu bát của hai khổ thơ trên đều được ngắt nhịp 4-4, nhưng rõ ràng âm hưởng của câu trước mạnh hơn do sự nhấn mạnh sắc thái ý nghĩa của các hư từ “càng” của câu bát, tả cảnh hạnh phúc đến ngây ngất của Kiều khi được thoát khỏi chốn lầu xanh.

Truyện Kiều đã góp phần làm cho nhịp điệu của câu thơ càng thêm hấp dẫn và có nhiều cung bậc là do sự xuất hiện đa dạng và phong phú của hư từ, cùng với việc nhấn mạnh vào sắc thái ý nghĩa của những bộ phận mà nó phụ thuộc. Ta có thể kể những trường hợp mà hư từ đã nhấn mạnh ở nhịp đầu câu lục:

0793. Vì ai ngăn đón gió đông,   

Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi.

0825. Đã nên quốc sắc thiên hương,       

Một cười này, hẳn nghìn vàng chẳng ngoa.

+ Khi thì hư từ nhấn mạnh ở nhịp sau của câu bát:

1109. Thừa cơ lẻn bước ra đi,     

Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn?

 1325. Thiếp như hoa đã lìa cành,           

 Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.

 + Nhiều khi tác giả lại dùng hư từ để nhấn mạnh ở cả hai câu thơ hay tất cả các nhịp trong câu thơ:

1115. Cũng liều nhắm mắt đưa chân,      

Mà xem con tạo xoay vần đến đâu.

 1365. Đã gần chi có điều xa,                 

 Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều.

 

3. Tuy bị ràng buộc bởi thể thơ vốn đều đều, đơn điệu bằng nhịp chẵn, nhưng Truyện Kiều vẫn tạo nên những vần thơ với nhịp điệu uyển chuyển, phong phú và vẻ lung linh diễm lệ của câu thơ. Đó là do tác giả đã biết nhấn mạnh vào sự đa dạng của các bộ phận câu thơ bằng cách sử dụng hữu hiệu, khai thác mọi khả năng độc đáo và tiềm tàng của từng hư từ để khắc hoạ rõ nét tính cách, tâm trạng của nhân vật cùng những phong cảnh thiên nhiên sinh động và hữu tình.

Với sự xuất hiện phong phú và đa dạng, cùng với việc nhấn mạnh vào sắc thái ý nghĩa những bộ phận mà nó phụ thuộc, hư từ Truyện Kiều đã góp phần làm nhịp điệu của câu thơ Truyện Kiều thêm hấp dẫn, có nhiều cung bậc khác nhau.

+ Khi thì hư từ nhấn mạnh ở nhịp đầu của câu lục:

 1949. Vì ta cho luỵ đến người,   

 Cát lầm ngọc trắng thiệt đời xuân xanh.

 1357. Lại càng dơ dáng dại hình,           

 Đành thân phận thiếp, ngại danh giá chàng.

+ Có khi hư từ nhấn mạnh ở nhịp sau của câu lục:

2429. Anh hùng tiếng đã gọi rằng,          

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.

1429. Một sân lầm cát đã đầy,

Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.  

+ Khi thì hư từ nhấn mạnh ở nhịp đầu của câu bát:

2305. Mụ quản gia, vãi Giác Duyên,        

Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.

2325. Cho gươm mời đến Thúc lang,       

Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run.    

+ Lại có khi hư từ nhấn mạnh ở nhịp sau của câu bát:

2327. Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non,

Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?

2393. Mấy người bạc ác tinh ma,            

Mình làm mình chịu, kêu mà ai thương!

 

4. Tuy hư từ không phải là yếu tố quyết định, nhưng là một yếu tố có nhiều khả năng tạo nên những sắc thái khác nhau của nhịp điệu. Tài năng độc đáo của Nguyễn Du chính là ở chỗ đã khai thác có hiệu quả những khả năng đó để tăng sức diễn đạt nội dung của câu thơ, đồng thời góp phần làm cho câu thơ Truyện Kiều có những âm hưởng đa dạng và sức hấp dẫn đến mê người. Khi thì hư từ nhấn mạnh đối xứng ở cả hai nhịp của câu lục:

1819. Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,     

Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.

2579. Nghe càng đắm, ngắm càng say,   

Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.

+ Khi hư từ nhấn mạnh đối xứng ở cả hai nhịp của câu bát:

1251. Ôm lòng đòi đoạn xa gần,

Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau.

2147. Đưa nàng vào lạy gia đường,        

Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh.

 

5. Hư từ đã giúp đưa các sự kiện, hiện tượng vào trong một thế tương quan cụ thể để thể hiện những mối liên hệ về chiều sâu bên trong của các sự kiện, hiện tượng. Bằng việc sử dụng hư từ để thể hiện mối liên hệ lôgich đó, Nguyễn Du đã làm cho những câu Kiều có sự kết dính hài hoà, tự nhiên, mà không chỗ nào thấy gượng ép nên câu chuyện về nàng Kiều cứ hiện lên, nối tiếp, không đứt đoạn, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Có khi hư từ nhấn mạnh lại đối xứng ở cả hai nhịp của ở cả hai câu:

2521. Trơ như đá, vững như đồng,         

Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời.

2809. Sinh càng trông thấy càng thương,

Gan càng tức tối, ruột càng xót xa.          

+ Có khi hư từ nhấn mạnh được lặp lại cùng một kiểu ở cả hai câu:

0989. Nàng thì bằn bặt giấc tiên,            

Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.

1533. Ở ăn thì nết cũng hay,                  

Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.

+ Có khi lại nhấn mạnh tất cả các nhịp trong câu thơ:

1891. Sinh đà ruột rát như bào,  

Nói ra chẳng tiện, trông vào chẳng đang.

1753. Cũng là oan nghiệp chi đây,          

Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.

Bằng cách lặp lại hư từ để nhịp thơ trở nên dồn dập, mạnh mẽ, nhiều câu Kiều đã thành công trong việc diễn tả một tâm trạng hay một sự kiện, đặc biệt là trường hợp lặp lại 6 chữ càng trong 4 câu sau đây:

1381. Một nhà sum họp trúc mai,            

Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.    

1383. Hương càng đượm, lửa càng nồng,            

Càng xôi vẻ ngọc, càng lồng màu sen.

Như những thanh âm chủ đạo trong một giai điệu tươi sáng, sáu hư từ “càng” trong 4 câu trên bật lên như những tiếng reo vui dồn dập, thể hiện đúng cái hạnh phúc chứa chan trong đoàn tụ của gia đình Thúc Sinh khi Kiều vừa thoát ra khỏi tay mụ Tú Bà.

 

6. Ta đã xét hư từ trong mối quan hệ với một số yếu tố cơ bản của câu thơ. Có thể nói hư từ đã góp một phần khá quan trọng vào vần, nhịp điệu, sự cân đối và tính liên kết của câu thơ trong Truyện Kiều. Sự đóng góp ấy đã làm cho câu Kiều thêm hài hoà, cân đối, bình dị, uyển chuyển, gần gũi và có sức hấp dẫn đối với người đọc. Thực ra mối quan hệ của hư từ với các thành tố khác trong câu Kiều là mối liên hệ rất khăng khít, biện chứng, đan xen hoà thấm vào nhau, một hư từ vừa có đóng góp ở việc tạo vần, vừa có thể trở là yếu tố tạo nhịp, tạo tính cân đối của câu thơ… Vì vậy bất kỳ một hư từ nào cũng cần được xét trong mối quan hệ nhiều chiều với các thành tố khác mới thấy hết được vai trò và giá trị của nó. Trong các mối quan hệ với các thành tố của câu thơ, hư từ của Truyện Kiều đã được sử dụng với một ý thức nghệ thuật rõ ràng, góp phần làm cho câu Kiều bình dị hơn, gần gũi với ngôn ngữ hàng ngày của nhân dân. Nghiên cứu mối quan hệ của hư từ với câu thơ Truyện Kiều, ta hiểu thêm vì sao người Việt ta lại quen thuộc và thích thú Truyện Kiều đến vậy.

Với dung lượng rất khiêm tốn khoảng 150 trang sách, Truyện Kiều quả là một cuốn tiểu thuyết viết dưới hình thức thơ, bởi những cảnh đời hiện thực muôn màu sống động mà nó phản ánh. Tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề, khái quát cả một xã hội và dựng lên hàng chục nhân vật điển hình thuộc nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi với những mối quan hệ chằng chịt trong một không gian rộng lớn và thời gian trên mười lăm năm trời.

 

IV. TỪ LÁY VỚI NHỊP THƠ VÀ VIỆC ĐỔI MỚI CÂU THƠ LỤC BÁT

1. Về mặt nghệ thuật, sáng tạo của nhà thơ luôn luôn gắn liền với nhu cầu biểu đạt có hiệu quả hiện thực đời sống. Sự đa dạng biến hoá về nhịp thơ lục bát Truyện Kiều thể hiện sự đa dạng của nhịp sống và sáng tạo nhịp điệu cho câu thơ lục bát ở đây cũng nằm trong tinh thần đó. Mặc dù Nguyễn Du không nói nhưng qua Truyện Kiều, ta cảm thấy ông đã ý thức sâu sắc về giá trị của nhịp trong câu thơ. Chúng ta hãy thử xem những biện pháp nào đã được sử dụng để đổi mới câu thơ lục bát. Nguyễn Du đã đổi mới câu thơ lục bát bằng nhiều cách, trước hết là việc tăng cường sử dụng từ láy ở những vị trí then chốt đã đem lại cho câu thơ sự dồi dào về âm hưởng và sự phong phú về nhịp.

Nhịp cơ bản của câu thơ lục bát là nhịp chẵn, ở đây chúng tôi sẽ xét đến mô hình nhịp thơ lục bát và chứng tỏ sự phong phú về nhịp của câu thơ Kiều qua việc sử dụng từ láy. Nhịp thơ bao giờ cũng được phân cắt dựa trên cơ sở ngữ pháp và ngữ nghĩa, với những nhịp thơ lục bát, nhiều trường hợp chức năng của từ láy là định ngữ. Với chức năng ấy, từ láy bao giờ cũng đi liền với từ trung tâm và tạo thành cụm từ láy. Và có những trường hợp cụm từ này thường nằm trọn trong một nhịp.

 

2. Ta hãy xem nhịp câu thơ lục bát có sự tham gia cấu tạo của từ láy như thế nào qua một số ví dụ sau:

Câu lục:

+ Từ láy tách riêng ở cuối câu:

Nhịp 2/2/2: 1189. Buồng riêng/ riêng những/ sụt sùi

+ Từ láy ở đầu câu:

Nhịp 3/3: 0083. Đau đớn thay/ phận đàn bà        

+ Từ láy tư đầu câu:

Nhịp 4/2:           1659. Hớt hơt hớt hải/ nhìn nhau 

+ Từ láy tách riêng ở đầu câu:

Nhịp 2/4: 0839. Mập mờ/ đánh lận con đen         

+ Từ láy ở giữa câu:

 1543. Lại còn/ bưng bít dấu quanh         

+ 2 từ láy ở cuối câu:

  0589. Một nhà/ hoảng hốt ngẩn ngơ

Câu bát:

+ Từ láy ở giữa câu:

Nhịp 2/4/2: 1348. Mười phần/ cũng đắp điếm cho/ một vài.

+ Từ láy tách riêng ở cuối:

1318. Nỗi quê/ còn một hai điều/ ngang ngang.

+ Một từ láy tách riêng ở đầu câu còn từ láy thứ hai liên kết với các từ khác làm thành cụm từ với kết cấu khá chặt chẽ để làm thành nhịp khác:

1154. Gạn gùng/ đến mực nồng nàn/ mới tha.

Câu này có nhịp 2/4/2, cũng có thể ngắt nhịp thành 6/2 nhưng không thể ngắt nhịp theo kiểu 4/4

+ Từ láy ba ở đầu câu:

Nhịp 3/5: 0584. Sạch sành sanh/ vét cho đầy túi tham.

+ 2 từ láy ở giữa mỗi nhịp:

Nhịp 4/4:   1428. Đào hoen quẹn má/ liễu tan tác mày.

Câu này có thể ngắt nhịp thành 1/3/1/3 hay 1/2/1/1/2/1.

+ 2 từ láy ở cuối mỗi nhịp:

1666. Nghĩ con vắng vẻ/ thương người nết na.

Loại nhịp này thường xuất hiện ở câu thơ có hình thức tiểu đối. Câu này có thể theo nhịp 1/3/1/3 vì ở đây các vế đối rất chỉnh.

+ Từ láy ở vị trí vần ứng:

Nhịp 2/1/3/2: 1190. Nghĩ thân/ mà/ lại ngậm ngùi/ cho thân.

 

3. Qua mô hình nhịp thơ trên đây, ta thấy từ láy tham gia tạo nhịp bằng hai cách:  

a. Từ láy có thể tự tách ra thành một nhịp riêng. Hai dòng thơ lục bát thường tạo thành một câu lọn nghĩa, từ láy đảo lên đầu câu lục sẽ tách riêng thành một nhịp là vị trí then chốt nên có giá trị thẩm mĩ cao:

1717. Bàng hoàng/ dở tỉnh dở say,          

Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.

1725. Gạn gùng/ ngọn hỏi ngành tra,      

Sự mình, nàng phải cứ mà gửi thưa.

1789. Lần lần/ tháng trọn ngày qua,       

Nỗi gần nào biết đường xa thế này.         

+ Cũng có những trường hợp từ láy tự tách ra thành một nhịp riêng ở cuối câu lục:

2063. Gió quang mây tạnh/ thảnh thơi,    

Có người đàn việt lên chơi cửa già.

1393. Thấy lời nghiêm huấn/ rành rành,  

Đánh liều, sinh mới dứt tình nài kêu.

+ Lại có trường hợp một câu lục có hai từ láy ở đầu và cuối câu tách riêng ra thành hai nhịp:

0321. Sượng sùng/ giữ ý/ rụt rè,

Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu.

+ Có khi hai từ láy ở cuối câu lục để tạo thành một nhịp:

1851. Nàng đà/ tán hoán tê mê,

Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.

1863. Sinh càng/ thảm thiết bồi hồi,        

Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.

b. Từ láy có thể liên kết với các từ khác làm thành cụm từ với kết cấu khá chặt chẽ để làm thành một nhịp. Như trường hợp từ láy ở giữa câu lục thường kết hợp với hai chữ cuối để thành nhịp cuối của câu theo nhịp 2/4:

1357. Lại càng/ dơ dáng dại hình,           

Đành thân phận thiếp, ngại danh giá chàng.

1815. Bề ngoài/ thơn thớt nói cười,         

Mà trong nham hiểm giết người không dao.

+ Từ láy có thể ở nhịp cuối của câu bát với nhịp 4/4:

1827. Sợ quen dám hở ra lời,                  

Khôn ngăn giọt ngọc/ sụt sùi nhỏ sa.

+ Cũng là nhịp 4/4 nhưng hai từ láy cũng có thể kết hợp với những từ khác để tách câu thơ thành hai nửa đối xứng và hai từ láy đứng ở đầu và cuối của câu bát:           

1655. Tớ thầy chạy thẳng đến nơi,          

Tơi bời tưới lửa/ tìm người lao xao.         

+ Từ láy có thể ở nhịp cuối của câu bát với nhịp 4/1/3:

1853. Bốn dây như khóc như than,         

Khiến người trên tiệc/ cũng/ tan nát lòng.

+ Từ láy lại có thể tách riêng thành nhịp cuối của câu bát với nhịp 2/4/2 và nỗi đau xót, sợ hãi như được ngân dài nhấn mạnh:

1233. Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,           

Giật mình/ mình lại thương mình/ xót xa.

1127. Một mình khôn biết làm sao,         

Dặm rừng/ bước thấp bước cao/ hãi hùng.           

+ Với nhịp 2/4/2, một từ láy ở đầu câu bát lại được dùng lặp lại ở cuối câu tạo nên một cái thế đặc biệt cho ta cảm giác lo sợ của Thuý Kiều về một tương lai bất định trôi nổi nay đây mai đó kéo dài triền miên:

2019. Phận bèo bao quản nước sa,         

Lênh đênh/ đâu nữa cũng là/ lênh đênh.

Câu này có thể theo nhịp thành 4/4.        

+ Nếu trên đây là trường hợp từ láy duy nhất được dùng lặp lại ở đầu và cuối câu bát thì sau đây lại là trường hợp một dòng thơ chỉ dùng toàn từ láy và từ láy tư đứng riêng thành một nhịp:

1983. Cười cười nói nói/ ngọt ngào,         

Hỏi/ chàng mới ở chốn nào/ lại chơi.

+ Nhiều trường hợp hai từ láy đứng ở cuối hai nhịp 4-4 trong một câu bát như:

2011. Thế mà/ im chẳng đãi đằng,          

Chào mời vui vẻ/ nói năng dịu dàng.

Trường hợp này, một khổ thơ có tới 4 từ láy.       

 

4. Nhịp thơ bao giờ cũng được phân cắt dựa trên cơ sở ngữ pháp và ngữ nghĩa, với những nhịp thơ lục bát, nhiều trường hợp chức năng của từ láy là định ngữ. Với chức năng ấy, từ láy bao giờ cũng đi liền với từ trung tâm và tạo thành cụm từ láy. Và có những trường hợp cụm từ này thường nằm trọn trong một nhịp. Sau đây là trường hợp hai từ láy đứng ở giữa hai nhịp 4-4 trong một câu bát có tiểu đối 4-4 như:

1783. Cửa người/ đày đoạ chút thân,      

Ngày ngơ ngẩn bóng/ đêm năn nỉ lòng.   

Câu bát này có thể ngắt nhịp thành 1/3/1/3.

+ Có trường hợp trong một khổ thơ, một từ láy ở đầu câu lục và một từ láy ở cuối câu bát đều tự tách ra thành những nhịp riêng với nhịp 2/4 ở câu lục và nhịp 4/2/2 (hay 6/2) ở câu bát:

0185. Chênh chênh/ bóng nguyệt xế mành,

Tựa ngồi bên triện một mình/ thiu thiu.

0439. Bâng khuâng/ đỉnh Giáp non Thần,

Còn ngờ giấc mộng đêm xuân/ mơ màng.

1095. Sượng sùng/ đánh dạn ra chào,     

Lạy thôi nàng mới rỉ trao/ ân cần…

Nhịp điệu kể chuyện thường là nhịp đôi, nó gợi lên cái giọng đều đều chậm rãi, cái giọng điềm tĩnh của người kể chuyện. Nhưng khi cần diễn đạt một hiện thực, một tâm trạng không bình thường thì Nguyễn Du lại dùng các nhịp lẻ khác nhau. Câu 0584. Sạch sành sanh/ vét cho đầy túi tham với nhịp 3-5 thể hiện rõ thái độ bất bình phẫn nộ của nhà thơ trước hành động dã man cướp của đánh người của bọn sai nha.

Nhịp 1/3/1/3 trong câu thơ 0572. Hoa/ trôi giạt thắm/ liễu/ xơ xác vàng cho ta ấn tượng về một cái gì đó bất ổn, không bình thường: Tuy có tiểu đối 4-4 (và cũng có thể ngắt theo nhịp 4/4), nhưng không đối hoàn toàn với chỉ một từ láy ở vị trí vần ứng (xơ xác) nhưng nó hoàn toàn phù hợp với việc diễn tả tâm trạng buồn bã của Kiều khi chia tay để Kim Trọng trở về Liêu Dương hộ tang chú mà chưa biết ngày nào chàng trở lại.

Nguyễn Du đã thực thiện vai trò tạo nhịp của từ láy một cách có quy mô để đổi mới câu thơ lục bát. Không chỉ trong việc chọn và sử dụng hiệu quả từ láy, Nguyễn Du còn thay đổi cách đặt câu và tăng cường đối trong câu thơ để biến đổi nhịp điệu câu thơ và tất cả phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng, gây nên hiệu quả biểu cảm cao.

Ngoài ra, từ láy ở vị trí vần trong Truyện Kiều cũng rất đa dạng:

+ Khi ở vần ứng câu lục:

0435. Sinh vừa tựa án thiu thiu,  

Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê.

+ Khi là 2 từ láy ở vị trí vần ứng của cả câu lục lẫn câu bát:

 0895. Xót con lòng nặng chề chề           

Trước yên/ ông đã nằn nì/ thấp cao.

+ Khi là 3 từ láy mà 2 ở vị trí vần ứng và 1 ở vị trí vần khởi:

1219. Những nghe nói đã thẹn thùng,      

Nước đời lắm nỗi/ lạ lùng khắt khe!         

+ Khi là 2 từ láy mà từ láy thứ nhất thành một nhịp ở cuối câu lục còn từ láy thứ hai ở nhịp 3 cuối câu bát nhịp 2/3/3 mà cả hai từ láy đều ở vị trí vần ứng:

1031. Thấy lời quyết đoán/ hẳn hoi,        

Đành lòng/ nàng cũng sẽ/ nguôi nguôi dần.

Có thể nói trong toàn bộ Truyện Kiều, cả 3.254 câu Kiều đều phong phú về nhịp, nhưng vẫn giữ được tính nhịp nhàng uyển chuyển, một phần quan trọng là nhờ khéo sử dụng từ láy, vì vậy nó có một vẻ đẹp làm say mê biết bao thế hệ thi nhân.

 

V. HƯ TỪ VÀ TÍNH CÂN ĐỐI TRONG THƠ KIỀU

1. Tính cân đối hài hoà là một trong những đặc điểm của câu thơ Truyện Kiều. Nghệ thuật đối trong Truyện Kiều rất đa dạng và phong phú từ đối chữ, đối ý, đối câu... đến đối từng đoạn. Qua bàn tay khéo léo của nhà nghệ sĩ thiên tài, những hình thức đối ấy đã đạt hiệu quả nghệ thuật cao, nhiều khi đạt đến mức tự nhiên như sự sắp xếp hài hoà của bản thân hiện thực nên câu Kiều nghe sang trọng, mà vẫn dễ dàng đến với mọi tầng lớp bình dân.

Khác với một số loại từ như danh từ, động từ, tính từ..., hư từ không có khả năng tham gia vào quá trình đối bằng ý nghĩa từ vựng mà chủ yếu ở chức năng ngữ pháp của chúng, ở khả năng tạo nên những khuôn câu, biểu thị quan hệ ngữ nghĩa và quan hệ ngữ pháp giữa các thành phần của câu thơ bằng một hư từ ở câu lục được lặp lại ở câu bát:

0527. Nàng thì vội trở buồng thêu,          

Sinh thì dạo gót sân đào bước ra.

1781. Tiểu thư xem cũng thương tài,       

Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.

 

2. Về mặt nghệ thuật, hư từ đã góp phần đặc sắc trong việc tạo nên sự cân đối của câu thơ Kiều. Trong Truyện Kiều có hàng trăm câu thơ có tính chất cân đối có hư từ, mà ở đấy hư từ có tham gia vào quá trình tạo nên sự cân đối bằng cách tự lặp lại ở sau.

Hư từ như được nhắc lại tạo nên sự cân đối trong câu lục làm tăng tính biểu cảm và mức độ thảm hại trong thái độ của Thúc Sinh trong trận đánh ghen có một không hai của Hoạn Thư:

1839. Sinh càng như dại như ngây,         

Giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi.     

Và sau đó thì Kiều phải nhận xét đánh giá về tính cách ghê gớm của mụ Hoạn cũng bằng hai hư từ như đối xứng:

1879. Nhẹ như bấc, nặng như chì,          

Gỡ cho ra nợ, còn gì là duyên.

Cũng như về sau, khi bị Hoạn Thư bắt gặp đang tình tự với Thúc Sinh ở Quan Âm Các, Kiều như phải “kêu lên”:

2005. Ấy mới gan, ấy mới tài!                 

Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời.

Hư từ mới lặp lại ở vị trí đối xứng trên đây cho ta thấy cái ghê gớm của Hoạn Thư.

Hư từ cũng tạo nên sự cân đối trong câu bát chứng tỏ cái quyết tâm của Kim Trọng trong việc đi tìm Kiều:

2939. Rắp mong treo ấn từ quan,           

Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng pha.

Còn ở câu sau đây thì hư từ cũng được nhắc lại trong thế đối xứng lại nhấn mạnh đến cái lưỡng lự của Mã Giám Sinh khi tính toán có nên “liều” một phen hay không trước lúc bước vào phòng Kiều ở trú phường:

0831. Miếng ngon kề đến tận nơi,           

Vốn nhà cũng tiếc, của trời cũng tham.

Hư từ được lặp lại tạo nên những tiểu đối 4-4 ở các câu bát vừa là nhấn mạnh đến sự việc, khi là tính cách ghê gớm trong hành xử của Hoạn Thư:

1561. Vội vàng xuống lệnh ra uy,            

Đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng.         

+ Khi là nỗi niềm đau khổ của cuộc đời Kiều lúc nàng kể lại với Từ Hải những năm tháng đã qua của cuộc đời mình:

2291. Khi Vô Tích, khi Lâm Tri,  

Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương.          

+ Khi trong lời tính toán của Thuý Kiều nghĩ đến nghỉ ngơi, vinh hoa phú quý không biết rằng đầu hàng là chết:

2489. Rằng: Ơn thánh đế dồi dào,          

Tưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu.         

+ Hoặc khi Kiều gặp lại gia đình:

3009. Trông xem đủ mặt một nhà:          

Xuân già còn khoẻ, huyên già còn tươi.

Và trong lễ thành hôn với Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc:

3133. Cùng nhau giao bái một nhà,         

Lễ đà đủ lễ, đôi đà đủ đôi.          

Có khi đã… còn… được đặt ở vị trí đối xứng với từ xoay vần tách đôi hai vế đối xứng:

2157. Hồng quân với khách hồng quần,   

Đã xoay đến thế còn vần chưa tha.

 

3. Trong việc tạo nên tính đối xứng của câu thơ, hư từ càng được lặp lại đã góp một phần quan trọng. Hư từ này được lặp lại trong cùng một câu nhiều nhất, với 30 lần lặp lại và sử dụng tới 60 chữ càng. Càng được dùng trong kết cấu càng... càng... để biểu thị mức độ cùng tăng như nhau, tức là chỉ tình trạng tăng thêm của cái này đồng thời với sự tăng thêm của cái kia có liên quan. Câu ghép dùng cặp phụ từ này diễn đạt quan hệ bổ sung giữa các sự việc nêu ở các mệnh đề theo kiểu sự việc nêu ở mệnh đề trước tiến triển bao nhiêu thì sự việc ở mệnh đề thứ hai tiến triển theo bấy nhiêu. Sự tiến triển có thể là thuận chiều nhau (tích cực – tích cực, tiêu cực – tiêu cực), hoặc trái chiều nhau (tích cực – tiêu cực, tiêu cực – tích cực). Như vậy một cách chi tiết hơn mối quan hệ giữa hai mệnh đề theo kiểu câu ghép này là quan hệ đồng tiến thuận/nghịch.

a. Kết cấu càng... càng... biểu thị mức độ cùng tăng như nhau được Nguyễn Du sử dụng rất linh hoạt vẫn trong một tiểu đối 3-3 ở câu lục:

+ Khi là chữ thứ 1-3:

1819. Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,     

Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.

+ Khi là chữ thứ 2-5

2579. Nghe càng đắm, ngắm càng say,   

Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.

 1681. Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau,            

Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây.        

 + Khi là tiểu đối 2-2 ở chữ thứ 3-5

 0247. Sầu đong càng lắc càng đầy,        

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.

 1537. Lửa tâm càng dập càng nồng,      

Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa.

+ Hay:

1313. Sinh càng tỏ nét càng khen,          

Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường.

2113. Nàng càng mặt ủ mày chau,          

Càng nghe mụ nói, càng đau như dần,

b. Kim Trọng trở lại vườn Thuý được ông bà Vương viên ngoại kể lại chuyện gia đình thật là thê thảm được tác giả nhấn mạnh bằng bốn hư từ càng trong hai câu lục bát:

2793. Ông bà càng nói càng đau,            

Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.

Quan hệ đối lập giữa các cặp hư từ càng... càng... trong câu bát được dùng sau một hư từ khai mào ở câu lục để diễn tả tâm sự chồng chất của Thúc Sinh hay Kim Trọng:

1869. Sinh thì gan héo ruột đầy,

Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.   

2867. Kim từ nhẹ bước thanh vân,          

Nỗi nàng, càng nghĩ xa gần càng thương.

Sau khi Kim – Kiều trao thoa tặng quạt rồi phải rời nhau thì Nguyễn Du viết:

0363. Từ phen đá biết tuổi vàng,            

Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ.

 Khi đã biết nhau như đá đã biết tuổi vàng (đá thử vàng), càng ngày tình cảm giữa hai người càng thấm sâu, lòng dạ, tâm trí như để ở đâu đâu, không còn chú ý gì đến xung quanh, vì người này chỉ còn nghĩ đến người kia. Thế rồi, Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang, gia đình Kiều gặp tai biến. Nửa năm sau, Kim trở lại vườn Thuý thì trước mắt chàng là cảnh:

 2769. Một sân đất cỏ dầm mưa,            

Càng ngao ngán nỗi, càng ngơ ngẩn dường.

Ở câu bát là một tiểu đối 4-4 thật hoàn chỉnh với hai hư từ càng khởi đầu hai nhịp, kèm theo hai từ láy cùng bắt đầu bằng phụ âm “ng” (ngao ngán, ngơ ngẩn). Trong câu thơ trên, từ láy ngẩn ngơ đảo lại thành ngơ ngẩn. Đảo trong Truyện Kiều nói chung là một hiện tượng ngữ pháp có ý nghĩa như một biện pháp tu từ có tác dụng đem lại cho từ láy khả năng bộc lộ tối đa về nghĩa và câu thơ do đó được tăng cường sắc thái biểu cảm, sẽ được xét đến ở mục Những từ dạng láy thuận nghịch ở Phần thứ ba – Từ láy. Ở đây bằng biện pháp tu từ sóng đôi cú pháp với tiểu đối 4-4, Nguyễn Du đã nhấn mạnh ý thơ ngoài hình thức đảo bằng cách kết hợp từ láy với hư từ với việc lặp lại hư từ càng và hai từ láy đối xứng. Thật là linh hoạt, tự nhiên và ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du còn cho ta thấy một lần nữa việc kết hợp hư từ càng với hai từ láy được dùng ở thế đối xứng trong tiểu đối 4-4 trong câu:

2807. Thề xưa, giở đến kim hoàn,           

Của xưa, lại giở đến đàn với hương.

 2809. Sinh càng trông thấy càng thương,            

Gan càng tức tối, ruột càng xót xa.          

Trong hai câu thơ trên, ta thấy 4 chữ càng được sử dụng liên tiếp góp phần làm cho nhịp thơ trở nên dồn dập, mạnh mẽ diễn tả tâm trạng đau đớn xót xa của Kim Trọng khi nhìn lại những kỷ vật xưa. Câu bát trên đây được viết trong dạng đối xứng với những chữ gan và ruột mở đầu mỗi nhịp thơ sau đó là hư từ càng và một từ láy tức tối, xót xa làm cho câu thơ mang đậm tình cảm nhớ thương của Kim Trọng.

Có khi là ba hư từ càng trong một câu:

1283. Hải đường mơn mởn cành tơ,        

Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng...

Có khi là 4 chữ càng được dùng trong dạng đối xứng ở hai câu thơ liên tiếp khi viết về đoạn Kim Trọng trở lại gia đình Vương Ông, trước thảm cảnh của gia đình:

2793. Ông bà càng nói càng đau,            

Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.

c. Có 6 trường hợp kết cấu càng... càng... đối xứng hoàn toàn trong tiểu đối 4-4 ở câu bát khi là chữ thứ 1 và thứ 4, bắt đầu của mỗi nhịp, ngoài những thí dụ kể trên:

0823. Mừng thầm cờ đã đến tay,            

Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng.

1227. Lầu xanh mới rủ trướng đào,         

Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.

1299. Miệt mài trong cuộc truy hoan,      

Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình.  

2845. Khi ăn ở, lúc ra vào,                     

Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa.

3187. Thoắt thôi tay lại cầm tay,            

Càng yêu vì nết, càng say vì tình.           

 2361. Dễ dàng là thói hồng nhan,          

Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.

Xem thêm mục “Hư từ càng với nhân vật Thúc Sinh”.

 

4. Bằng mẫn cảm nghệ thuật của mình, Nguyễn Du đã biết khai thác khả năng của hư từ, tạo nên những câu thơ có cấu trúc ngữ pháp giống nhau, sử dụng hai hư từ lặp lại liên tiếp dẫn đến sự hài hoà đăng đối không chỉ trong câu thơ mà trong cả đoạn thơ với hai hư từ ở cùng một vị trí đối trong câu bát như kiểu Càng yêu vì nết, càng say vì tình:

1251. Ôm lòng đòi đoạn xa gần,

Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau.      

Giữa câu 6 và câu 8, có khi là hai hư từ ở cùng một vị trí tương ứng trong hai câu:

 1533. Ở ăn thì nết cũng hay,                 

Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.

2375. Tha ra thì cũng may đời,   

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.

Có khi là hai hư từ đi liền được lặp lại ở 2 hay 3 câu thơ liên tiếp:

0101. Lại càng mê mẩn tâm thần,           

Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.

0103. Lại càng ủ dột nét hoa,                 

Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.          

1549. Làm cho nhìn chẳng được nhau,    

Làm cho đày đoạ cất đầu chẳng lên.

 1359. Thương sao cho vẹn thì thương,   

Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng.

2101. Nơi gần thì chẳng tiện nơi,

Nơi xa, cũng chẳng có người nào xa.

Sự tương đồng về cấu trúc giữa các khổ thơ lại diễn ra giữa các bộ phận của cả 2 câu lục và cả 2 câu bát:

2139. Cũng nhà hành viện xưa nay,        

Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.

 0681. Cũng đừng tính quẩn lo quanh,     

 Tan nhà là một, thiệt mình là hai.          

 

5. Không chỉ sử dụng những kiểu cấu trúc ngữ pháp giống nhau để tạo nên sự cân đối hài hoà về mặt hình thức, Nguyễn Du còn coi hư từ là một biện pháp nghệ thuật quan trọng để miêu tả những sự kiện bề bộn, tâm trạng băn khoăn của nhân vật Truyện Kiều. Đặc biệt là việc tạo ra những khuôn hình câu có quan hệ đối lập giữa các bộ phận với những cặp hư từ: ví... thì... trong các thí dụ sau đây:

0075. Ví không duyên trước chẳng mà,

Thì chi chút ước gọi là duyên sau.

0209. Ví đem vào tập Đoạn trường,

Thì treo giải nhất chi nhường cho ai!

0421. Ví dù giải kết đến điều,     

Thì đem vàng đá mà liều với thân.

Quan hệ đối lập giữa các cặp hư từ đã... cũng, đà… còn..., đà… vừa… lại được vận dụng rất linh hoạt:

0691. Họ Chung ra sức giúp vì,   

Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong.

0167. Bóng tà như giục cơn buồn,           

Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo.  

3215. Chuyện trò chưa cạn tóc tơ,          

Gà đà gáy sáng, trời vừa rạng đông.

Những câu có sắc thái đối lập được tạo nên bởi quan hệ cú pháp trong Truyện Kiều thường có được bằng cách sử dụng những kết từ nhưng sự đối lập không giống với sự đối lập của các từ có nét nghĩa trái ngược nhau.

2519. Khí thiêng khi đã về thần,

Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng.

 2787. Kiếp này duyên đã phụ duyên,     

Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.

3045. Sự đời đã tắt lửa lòng,                  

Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!

Rõ ràng sự đối lập của các hư từ tạo nên trên đây không bộc lộ mạnh mẽ mà hài hoà tự nhiên, nhẹ nhàng mà tinh tế nếu ta so sánh sự đối lập trong những câu thơ sau đây do nét nghĩa trái ngược nhau của các từ được sử dụng:

 1839. Sinh càng như dại như ngây,        

Giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi.     

 2735. Bốn bề bát ngát mênh mông,

Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau…

Ta có thể kể thêm một số trường hợp nữa để thấy những đặc điểm trên đây của hư từ đã góp phần làm cho tính chất đối của câu thơ Truyện Kiều trở nên dung dị hài hoà như thế nào:

3215. Chuyện trò chưa cạn tóc tơ,          

Gà đà gáy sáng, trời vừa rạng đông.

2815. Chưa chăn gối cũng vợ chồng,       

Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang...

Trên đây là cặp hư từ chưa… đã… biểu thị sự kiện xảy ra nhanh trong thời gian hay ngược lại đã… chưa… biểu thị hai hành động cùng xảy ra nhưng một việc đã xong, một việc chưa xong:

2617. Mảnh trăng đã gác non đoài,         

Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.

+ Có khi biểu thị nghĩa nghi vấn:

1263. Tình sâu mong trả nghĩa dày,        

Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?

Xem thêm mục chưa, chửa ở chương Hư từ trong Truyện Kiều.

+ Rồi đến các cặp hư từ vừa… đã …:

1385. Nửa năm hơi tiếng vừa quen,        

Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.

 1387. Giậu thu vừa nảy giò sương,        

Gối yên, đã thấy xuân đường tới nơi…

Những hư từ này đã giúp cho câu thơ Truyện Kiều thể hiện thành công những cung bậc tình cảm khác nhau của nhân vật và câu Kiều càng trở nên gần gũi bình dị cũng như những cặp hư từ đã… lại… được sử dụng rất khéo léo sau đây:

0957. Đủ điều nạp thái, vu quy,  

Đã khi chung chạ, lại khi đứng ngồi.

2475. Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,      

Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân.     

3111. Nói chi kết tóc xe tơ,                     

Đã buồn cả ruột lại dơ cả đời…

1587. Thiếp dù vụng chẳng hay suy,       

Đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười…

 

VI. HƯ TỪ VÀ VẦN TRONG TRUYỆN KIỀU

Cũng như những từ loại khác, hư từ trong Truyện Kiều bị chi phối bởi quy tắc hiệp vần trong câu thơ của thể lục bát. Nếu nằm ở vị trí vần của câu thơ thì hư từ phải là một từ có thanh bằng và hợp âm vận với vị trí vần tương ứng của câu khác. Đoạn thơ sau đây tả sau lúc Kiều tự vẫn trên sông Tiền Đường có 10 hư từ trong đó có 3 hư từ nằm ở vị trí vần rồi, chi, gì cho thấy rõ điều đó:

2637. Thổ quan theo vớt vội vàng,          

Thì đà đắm ngọc chìm hương mất rồi.     

 2639. Thương thay cũng một kiếp người,            

Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!

 2641. Những là oan khổ lưu ly,  

Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!

Trong thể thơ lục bát, mỗi khổ thơ có ba chữ phải hợp vần: Chữ thứ 6 của câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 của câu bát. Trong ba vị trí vần của khổ thơ thì chữ thứ 6 của câu lục và chữ thứ 6 của câu bát là vị trí hiệp vần hay vần hiệp bắt buộc, còn chữ thứ 8 của câu bát là vị trí khởi vần hay vần khởi là vần đặt ra cho các khổ thơ khác phải hiệp theo. Chữ dùng ở vị trí hiệp vần khó chọn hơn vì phải được cân nhắc, lựa chọn, sao cho thanh điệu hợp vận với vần khởi nằm ở cuối câu trước đó:

1323. Nàng càng ủ dột nét hoa,  

Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh:

 1325. Thiếp như hoa đã lìa cành,           

Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.

 1327. Chúa xuân đành đã có nơi,           

Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi!          

 1329. Sinh rằng: Từ thủa tương tri,        

Tấm riêng, riêng những nặng vì nước non.

 1331. Trăm năm tính cuộc vuông tròn,   

Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.

Trong đoạn đối thoại trên đây gồm 10 dòng thơ giữa Kiều và Thúc Sinh ở lầu xanh Tú Bà có 11 hư từ thì 3 hư từ ở vị trí vần mà, chi, vì đều được dùng rất chuẩn và đúng với hoàn cảnh của Thuý Kiều khi nàng nghi ngại và chưa muốn quan hệ giữa hai người tiến quá nhanh.

Trong thể thơ lục bát, vị trí gieo vần giữ một vai trò rất lớn và là yếu tố chỉ đạo về mặt hình thức để các câu thơ liên kết với nhau, nối liền mạch thơ và tạo nhịp cho câu thơ. Đây chính là ưu thế của thể thơ lục bát làm cho bài thơ có thể kéo dài vô tận mà Nguyễn Du đã sử dụng và dừng lại ở câu thứ 3.254. Mỗi sai sót nhỏ ở vị trí này từ thanh điệu đến ý nghĩa từ vựng cũng có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nội dung diễn đạt của câu thơ. Như ta thường gặp trong một số truyện thơ Nôm, ở đó bên cạnh những trường hợp sử dụng thành công, ta còn thấy khá nhiều chỗ hư từ được dùng một cách gượng ép, biến thành những từ đệm để lấp đầy chỗ trống kiểu như trong Hoàng Trừu:

Tôi xin trình mụ hay đi,

Đền hoàn công mụ ắt thì cũng phu.

Hay trong Thạch Sanh:

Việc làm nào có khó gì,

Biến vào kho nội trộm thì của vua…

Và còn rất nhiều câu tương tự trong các truyện thơ Nôm khác.

Tài năng của các tác giả trong cách gieo vần thường bộc lộ qua những vị trí hiệp vần này. Sau đây là ví dụ về những hư từ ở vị trí vần trong một vài câu Kiều:

0723. Cậy em, em có chịu lời,    

 Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

1473. Mảng vui rượu sớm cờ trưa,          

Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh.

1539. Ví bằng thú thật cùng ta,   

Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên…

Gần như một ngoại lệ, Truyện Kiều vượt qua được những sai sót phổ biến trong các truyện Nôm xưa, dù số lượng và tỉ lệ hư từ ở vị trị vần ứng vượt xa so với các tác phẩm khác. Trong số 3.253 vần ứng của tác phẩm, Truyện Kiều có trên 100 lần dùng hư từ, nằm ở vị trí vần ứng, nhưng Nguyễn Du đã mạnh dạn sử dụng loại từ khó dùng này vào vị trí quan trọng của câu thơ lục bát. Và điều đặc biệt là trong trên 100 lần xuất hiện, không một hư từ nào phải dùng gò ép, dễ dãi, gây tổn hại đến nội dung diễn đạt và vẻ đẹp của câu thơ. Hầu hết những hư từ này đã xuất hiện đúng vị trí mà câu thơ cần đến, xin lấy 3 ví dụ về hư từ ở vị trí vần ứng sau đây trong đoạn Kiều đánh đàn hầu rượu vợ chồng Hoạn Thư:

1861. Sao chẳng biết ý tứ gì?                 

Cho chàng buồn bã, tội thì tại ngươi.

1865. Giọt rồng đã điểm canh ba,           

Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm.

1879. Nhẹ như bấc, nặng như chì,          

Gỡ cho ra nợ, còn gì là duyên.

Những hư từ trong vị trí vần ứng hiệp vận trong Truyện Kiều như ví dụ ở đây đều rất chuẩn. Cũng như trong những câu dưới đây, hai hư từ ở vị trí vần ứng liên tiếp nhau mà không gây ra sự bất bình thường nào về trật tự cú pháp mà xuất hiện rất đúng chỗ, góp phần làm cho câu thơ trở nên nhuần nhị, trong sáng và dễ hiểu:

1431. Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,  

Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa.

 1433. Khóc rằng oan khốc vì ta,            

Có nghe lời trước chớ đà luỵ sau.            

Còn có trường hợp hai hư từ mà, là được sử dụng cùng ở vị trí vần ứng trong một khổ thơ có tới 7 hư từ:

0075. Đã không duyên trước chăng mà

Thì chi chút ước gọi là duyên sau.

Hư từ ở vị trí vần có hai ưu thế thể hiện nơi khả năng diễn đạt của những từ ở vần và khả năng nhấn mạnh vào một nội dung, một sắc thái nào đó của hư từ. Nguyễn Du đã biết khéo kết hợp những ưu thế đó để làm cho những hư từ trong vị trí vần câu thơ lục bát Truyện Kiều tiềm tàng một sức biểu hiện dồi dào. Có khi hư từ được đặt vào vị trí vần để nhấn mạnh trạng thái nội tâm nhân vật:

0291. Buông cầm xốc áo vội ra,  

Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.

1323. Nàng càng ủ dột nét hoa,  

Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh.

1347. Như chàng có vững tay co,           

Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.

Có khi hư từ được đặt vào vị trí vần để nhấn mạnh trạng thái của cảnh vật:

1795. Sen tàn, cúc lại nở hoa,                 

Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân.   

Có trường hợp hư từ được dùng trong ngôn ngữ tác giả không ở vị trí vần nhưng lại nhấn mạnh những nhận xét, chiêm nghiệm trong đời như:

3243. Bắt phong trần, phải phong trần,   

Cho thanh cao, mới được phần thanh cao.

3247. Có tài mà cậy chi tài,                    

Chữ tài liền với chữ tai một vần…

Còn trong ngôn ngữ nhân vật như khi Vương Quan kể lại câu chuyện về nàng kỹ nữ Đạm Tiên thì hư từ gì lại ở vị trí vần ứng nhấn mạnh ý của câu thơ:

0063. Nổi danh tài sắc một thì,   

Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.

Và Thuý Kiều khi nghe kể chuyện thì đầm đầm châu sa:

0083. Đau đớn thay phận đàn bà!           

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Hư từ ở vị trí vần ứng bắt buộc phải thuộc vần bằng nên số lượng ít nhưng có thể nói Nguyễn Du đã điều khiển đội quân đông đảo mà hay nhiều tật này một cách chính xác, không một trường hợp nào lạc vận hay cưỡng ép. Xin dẫn ra đây một số trường hợp mà tác giả đã sử dụng hư từ ở vị trí vần ứng kết hợp với một vài hư từ khác.

1103. Nàng đà biết đến ta chăng,           

Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi.

1201. Nghề chơi cũng lắm công phu,       

Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.

Có khi tác giả tập trung tới 8 hư từ trong hai dòng thơ để nhấn mạnh một nét của tâm trạng. Đây là tâm trạng của Giác Duyên khi biết Thuý Kiều đã nói dối. Bà nghe Kiều thú nhận thì rụng rời, bồi hồi trong dạ:

2075. Rỉ tai mới kể sự lòng:                   

- “Ở đây cửa Phật là không hẹp gì.

2077. “E chăng những sự bất kỳ,            

“Để nàng cho đến thế thì cũng thương.

2079. “Lánh xa, trước liệu tìm đường,      

“Ngồi chờ nước đến xem dường còn quê”.

Câu 2077-2078 có 8/14 chữ là hư từ.

Tài năng tuyệt vời của thi hào không chỉ ở việc sử dụng hư từ nhiều hay ít, phong phú đa dạng hay chính xác mà còn ở chỗ ông biết sử dụng, khai thác mọi khả năng độc đáo và tiềm tàng của từng hư từ. Chính điều đó đã góp phần tạo nên những câu thơ diễm lệ, lung linh, khắc hoạ rõ nét tính cách, tâm trạng cùng cảnh vật thiên nhiên trong tác phẩm.

Trong số những hư từ nằm ở vị trí vần ứng như câu thơ trên đây, nhiều hư từ được sử dụng một cách khéo léo góp phần thể hiện thành công nội dung diễn đạt của câu thơ. Cách sử dụng hư từ ở vần ứng sau đây mới thực là độc đáo. Sau khi nghe Thúc Sinh khóc lóc bào chữa, đúng ra là kêu oan cho Thuý Kiều, viên tri phủ Lâm Tri mới biết Kiều cũng là người hiểu biết nên đã phán:

1447. Rằng: - “Như hẳn có thế thì,          

 “Trăng hoa, song cũng thị phi biết điều”.

Nằm ở vần ở cuối câu lục, hư từ thì đã chuyển tải một nội dung phong phú nhằm lột tả tính cách của viên quan phủ. Chữ thì với chức năng của hư từ thường nhấn mạnh vào bộ phận từ ngữ đứng sau nó và những từ đứng sau nên phải được đọc liền mạch với từ này. Theo cách đọc thông thường của thơ lục bát thì đến chữ thứ 6 của câu lục (thì) có một thời gian dừng nên về mặt lôgic ngữ pháp ở đây chữ thì đặt ở cuối câu lục có cái gì không thuận. Và chính cái không thuận ấy lại rất hợp với tình cảnh lúng túng của viên quan. Sau khi nói một câu tưởng như không có gì mới (như hẳn có thế thì), quan phủ đã phải dừng lại ở một vài chữ cầu kỳ (Trăng hoa, song cũng thị phi...) như muốn cố tô điểm cho lời nói của mình để tỏ ra mình là một khách văn chương. Ông phải dừng lại để chọn lời cho hợp với lời phán của một vị quan toà. Về mặt ngữ pháp, câu thơ được tạo nên bởi từ thì cuối câu lục có cái gì như phi lôgic lại diễn tả được cái lôgic khách quan về tính cách của viên quan hay chữ này. Đấy là chưa kể trong câu lục này 4 chữ trong số 6 chữ đều là hư từ.

Như vậy trong Truyện Kiều, hư từ ở vị trí vần của câu thơ đều được sử dụng rất chính xác, đạt đến độ tự nhiên, hài hoà, không những góp phần làm cho câu thơ Truyện Kiều mềm mại, uyển chuyển, mà còn làm tăng thêm khả năng diễn đạt tinh tế cả về sắc thái tình cảm lẫn tính cách của nhân vật.

Phạm Đan Quế 

 

 

____________________

Địa chỉ liên lạc:   phamdanque@yahoo.com

Phạm Đan Quế , CT3-4-20, Riverside Residence, 182 Nguyễn Lương Bằng, Phường Tân Phú, Quận 7, TP Hồ Chí Minh,  

ĐT: 08. 54171727 – DĐ: 0909842973.

 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
Các bài khác: