LỜI BÁC VẪN CÒN VANG VỌNG
Trong thời gian qua, Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết, quy định, chỉ thị nhằm uốn nắn, điều chỉnh, xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ đảng viên. Là những đối tượng hàng ngày hàng giờ phải tuân thủ quy luật “nhất nhật tam tỉnh ngộ thân” nghĩa là ít nhất trong một ngày ta phải tự kiểm điểm ba lần để xem mình có vi phạm điều gì không?, có phạm sai lầm nào không? và từ đó phải điều chỉnh lại mình không trượt ra ngoài quỹ đạo, giữ vững khuôn vàng thước ngọc, giá trị chân chính của người cán bộ đảng viên. Trong tác phẩm “Cửa Mở”nhà thơ Việt Phương có một câu rất tâm đắc: “Cứ đêm đêm ta lại kết nạp ta vào Đảng”. Thuở đó khó khăn kháng chiến trong đạn bom nhận thức như vậy chẳng rõ ràng trong sáng lắm sao, thiêng liêng lắm khi đứng trước Đảng kỳ mà tuyên thệ. Đó là điều tác giả muốn nhắc nhở chúng ta hãy thường xuyên rèn rũa mình kiên định vững vàng kiên cường giữ vững khí phách của người cộng sản. Như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “... Nói chung, thì người đảng viên ở bất kỳ đâu, bất kỳ làm việc gì, bất kỳ địa vị nào và hoàn cảnh nào cũng phải luôn luôn:
- Đặt lợi ích của tổ quốc , của nhân dân lên trên hết, trước hết.
- Phải ra sức tham gia công việc kháng chiến.
- Phải gần gũi dân chúng, thương yêu , giúp đỡ dân chúng, tổ chức và lãnh đạo dân chúng.
- Phải giữ vững đạo đức cách mệnh, là chí công vô tư.”
- “Cán bộ đảng viên phải gương mẫu cho nhân dân... muốn hướng nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Rồi chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn chúng ta: “Cán bộ cấp trên phải làm gương mẫu, thật thà tự phê bình, phải hoan nghênh và khuyến khích mọi người phê bình mình, tức là phải thực hiện dân chủ rộng rãi. Từ trên xuống rồi từ dưới lên”. Trong quá trình hoạt động cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.(theo Hồ Chí Minh Toàn tậpNXBCTQG) Nội dung nhân dân đã chiếm một vị trí quan trọng. là trung tâm là trái tim, chi phối toàn bộ tư tưởng tình cảm của Người.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân Dân, phục vụ Nhân Dân là một trong những nội dung trọng yếu trong việc thực hiện chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ chính trị về:”Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Năm 2019 một sự kiện mang nhiều ý nghĩa chính trị thực hiện chương trình hành động đó là tiếp tục thực hiện chỉ thị 05 của Bộ chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Với chủ đề: “Xây dựng ý thức tôn trọng Nhân Dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống Nhân dân”. Đây là một trong những nội dung trọng yếu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Trong thực tế từ lâu Đảng ta đã lãnh đạo , chỉ đạo việc học tập tư tưởng phong cách Hồ Chí Minh nhằm nâng cao ý chí chiến đấu , nâng cao đạo đức phẩm chất cách mang , năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên, viên chức ở mọi cấp mọi ngành suốt đời học tập noi gương và làm theo lời Bác dạy.
Thực hiện chuyên đề trên, vừa qua Chi bộ 8 – Đảng bộ phường Vị Xuyên. Đã tổ chức học tập tuyên truyền sâu rộng trong toàn thể các cán bộ đảng viên các chi hội đoàn thể trong chi bộ và tổ dân. Chúng tôi đã học tập và tiếp thu nghiêm túc. Nhận thức là một quá trình. Mỗi người đều tiếp cận theo trạng thái tâm thế riêng không ai giống ai. Nhưng tựu trung nổi bật hơn hết đó là: Tưởng nhớ công ơn trời biển của Bác, nỗi nhớ thương bác lắng đọng trong từng con chữ, tùng trang viết, và cả những mẩu truyện sâu sắc về cuộc đời hoạt động cách mạng của người. Một nhân cách vĩ đại một tâm hồn lộng gió thời đại. Một tấm gương trong sáng xuyên suốt qua hai thế kỷ. chỉ có ở Chủ tịch Hồ Chí Minh: giản dị gần gũi ấm áp.
Tư tưởng của Bácvề tôn trọng Nhân dân là người đã đánh giá đúng vai trò sức mạnh của Nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Từ đó Người dậy chúng ta: “Việc gì có lợi cho dân ta hết sức làm,việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu kính ta”.Đây là nội dung học tập xác lập một quan điểm nhân sinh, củng cố lòng tin đối với cán bộ Đảng viên viên chức nói chung và cán bộ đảng viên trong tổ dân chúng tôi.
Chúng ta làm sao có thể quên những suy nghĩ những khát vọng cháy bỏng của Bác trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, canh cánh một điều tâm huyết chừng nào đồng bào ta cơm chưa đủ no, áo chưa đủ ấm, trẻ em chưa được đến trường. Thì độc lập đó chẳng có nghĩa gì. Chính vì vậy. Bác thiết tha căn dặn cán bộ đảng viên là phải phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân là “lo trước thiên hạ vui sau thiên hạ”, suốt đời hy sinh để xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Vô cùng xúc động trước khi vĩnh biệt chúng ta. Người đã để lại tác phẩm: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang bước vào giai đoạn quyết định Bác đã tiên lượng được sự đe dọa cực kỳ nghiêm trọng của căn bệnh đang có nguy cơ phá rã cơ thể đảng ta và xã hội ta. Đó là giặc “nội xâm” chủ nghĩa cá nhân song hành giặc “ngoại xâm” cản trở, phá hoại bước tiến lên của toàn dân tộc. Bác đã chỉ rõ những biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa cá nhân là Tham ô, hủ hóa, hám danh, địa vi, tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xa rời quần chúng, không chịu học hỏi để tiến bộ, kéo bè kéo cánh, vô tổ chức vô kỷ luật.Từ đó Bác đã đề ra những phương án chữa trị đặc biệt đó là “ Phải đặt lợi ích của Cách mạng, của Đảng và của Nhân dân lên trên hết, trước hết. Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị và nó luôn luôn thì thầm vang vọng trong ta. Hãy cảnh giác trước mọi cạm bẫy của chủ nghĩa cá nhân.
Những năm gần đây thực hiện mục tiêu đổi mới của Đảng, đất nước đang trên đường phát triển và hội nhập. Cuộc sống đa dạng phong phú muôn mầu muôn vẻ hối hả trong dòng chảy của nền kinh tế thị trường. Người ta đua chen nhau để thoát nghèo, để làm giầu. Xuất hiện những người làm giầu thông minh còn có cả những kẻ cơ hội làm giầu không chính đáng, lợi dụng cơ chế và sơ hở của chính sách mà bòn rút công quỹ gây thiệt hại cho Đảng và nhà nước ta. Ngoài ra có một số cán bộ đảng viên, lợi dụng chức quyền trù đập ức hiếp, tham nhũng gây dư luận bình trong nhân dân.
Nghị quyết Trung ương 4 ra đời gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, nhắc nhở chúng ta không được xa rời cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nước Việt
Thực thi và triển khai nội dung Nghị quyết Trung ương 4 đi vào cuộc sống. hình ảnh “củi vào lò” đang được thực thi mạnh mẽ sôi động, có sức thu hút dư luận, không có vùng cấm, đạt được nhiều hiệu quả. Nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân trả lại hình ảnh chân dung rạng rỡ của một bộ phận cán bộ đảng viên chân chính, công chức viên chức ưu tú, một số quan điểm vùng cấm bị gỡ bỏ không còn quan niệm “rửa mặt kiêng gội đầu”, HAY CHỐNG THAM NHŨNG CHỈ “TỪ VAI XUỐNG”. Không còn nữa.
Do vậy nói rằng học tập tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh thì bài học ; Thẳng tay trừng trị tham nhũng lúc này là cần học nhất, và làm theo ngay lập tức. Để sử lý những vụ án tham nhũng về vật chất thiệt hại cho quốc gia hàng ngàn tỷ đồng, cùng những tham nhũng về tinh thần với những sách nhiễu đòi hỏi những “chi phí bôi trơn” đang làm băng hoại xã hội đè nặng người dân và các tổ chức kinh tế xã hội, tạo thành những ung nhọt nhức nhối, gây ra sự khủng khoảng về tâm lý thiếu niềm tin với: Đảng, chính quyền, và bộ máy quản lý nhà nước. Bác Hồ đã từng dậy: “Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục toàn dân, toàn quốc”.
Nhũng lời dậy của Bác vẫn còn nguyên giá trị thời sự: Không thể kiến quốc thành công nếu như tham nhũng thất thoát , lãng phí hàng chục ngàn tỷ đồng ở đâu đó vẫn còn xảy ra, thì lấy đâu ra nguồn lực để kiến quốc trong khi đất nước ta còn nhiều khó khăn.
Phải thừa nhận rằng: Trong những năm qua chúng ta đã tích cực hưởng ứng cuộc vận động: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt là chủ đề năm 2019: “xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân”. Hầu hết các chi bộ trong Phường Vị Xuyên tp.
Hơn lúc nào hết ý thức tôn trọng nhân dân ở phạm trù đạo đức cần được đề cao vai trò nhân dân. Nhằm góp phần xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về chính trị tư tưởng đạo đức và lối sống, những biểu hiện tự diễn biến tự chuyển hóa , nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, góp phần thành công đường lối đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.
Tôn trọng Nhân dân phát huy dân chủ , chăm lo đời sống nhân dân là một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Mimh xuyên suốt từ ngày Đảng ta ra đời đến nay. Tư tưởng yêu nước trọng dân, thương dân , suốt đời vì cách mạng vì nhân dân mà hy sinh phấn đấu, không màng danh lợi, sống giản dị khiêm nhường của Bác là tấm gương đạo đức vô cùng trong sáng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân học tập và làm theo.
Chúng ta hãy học tập và thực hành tốt những điều Bác dạy từ những việc nhỏ hàng ngày, trên công việc của mỗi người.Nếu hàng ngày Chúng ta đều cố gắng làm một việc tốt trong phận sự được giao, tương ứng với chức trách của mình để làm lợi cho nhân dân cho đất nước thì chắc chắn cuộc vận động : “ Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách HỒ CHÍ MINH sẽ đạt được kết quả tốt đẹp và tạo được chuyển biến rõ rệt thực sự trong đời sống đạo đức của Đảng và toàn xã hội./.
Lại Quang Phục
phường Vi Xuyên -
Lạt Sơn Căn cứ Sơn Anh Phu nhân
Lê Chân tướng của Hai Bà Trưng.
Lịch sử thời gian đầu công lich những năm 40 còn có nhiều góc khuất. Vùng đất mà người viết bài này nói đến như một hiện tượng khảo cứu đặc biệt. Bởi vì không phải ngẫu nhiên mà Thánh Chân Công chúa chọn nơi đây tiếp tục kéo dài cuộc kháng chiến chống nhà Đông Hán.
Sau khi Hai Bà Trưng tuẫn tiết trên sông Hát (vào ngày 06 tháng 02 năm Quý Mão 0043)
Dấu ấn lịch sử còn lại không nhiều nhưng những giá trị thực vẫn neo vào thấm sâu tạo thành một địa tầng văn hóa có bề dầy lịch sử Thấm vào cỏ cây đá núi và các mạch nguồn tạo nên dòng Ngân giang, Bầu sữa nguyên sinh của Càn Khôn đã phối ngẫu duy trì tồn tại và phát triển các dòng họ Dương, Đinh, Trần, Phạm, Lê, Vũ ...v.v..là các tộc người Việt cổ đến đây khai phá săn bắn hái lượm gieo trồng lập làng lập xóm khai khẩn ruộng đồng khởi thủy nền văn minh lúa nước cứ dần dần tích tụ, sáng tạo ra những công cụ đặc trưng của người Việt cổ. kể từ thời Hồng Bàng đến nay dân tộc ta đã trải qua có hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước. Những lớp bụi thời gian ngày càng khẳng định giá trị lịch sử cùng với men rêu đá núi phong hóa trùng trùng điệp điệp tạo nên bởi dãy núi Dài 99 ngọn , cửu cửu trùng sơn Kéo dài từ Tản Viên Sơn tới Ninh Bình Thanh Hóa. Núi rừng Làng Lạt Sơn nằm trong quần thể đó, thuộc vùng Tây sông Đáy Hà
Với Mã Viện là một tướng già có kinh nghiệm chiến trận của đế chế phương Bắc đã dùng nhiều quỷ kế thâm độc dùng cả những thủ đoạn bi ổi hèn hạ đối phó với một lực lượng mỏng đa phần là nữ nhi. Sau sự kiện thất thủ của Hai Bà Trưng khoảng giữa Trung tuần tháng 2 mùa Xuân thì vào trung tuần tháng 7 cuối hè đầu thu năm đó trận đánh không cân sức quân giặc quỷ QUYệt thâm độc đã dùng mọi thủ đoạn hèn hạ tấn công vòa đại bản doanh của Thánh Chân công Chúa. Biết rằng :Trận Đồng Loạn sẽ thất thủ Thánh Chân Công Chúa sau khi dặn dò Bộ tướng Đô Dương rút tàn quân theo đường sạn đạo lui về Thanh Hóa, còn mình trèo lên đỉnh Zát dâu ngảnh mặt về xứ Đoài tưởng nhớ Hai Bà Gieo mình quyên sinh bảo toàn danh tiết những ngày đó vào đúng tiết Ngâu mây đen vần vũ như ngàn vạn cánh chim Ô Thước bao phủ núi non Lạt Sơn, thương tiếc một nữ anh hùng hào kiệt đã xả thân vì trượng nghĩa hy sinh thân mình chống lại ngoại bang. Những đám mây Ô thước đã rước Hồn linh của Thánh Chân Công chúa về nơi tiên giới để lại nhân gian muôn giọt lệ sầu mưa mãi không thôi sụt sùi tháng 7. Dân gian kể lại rằng thi thể của bà đã được những tùy tướng tâm phúc chôn dấu trong một khe núi nào đó trong dãy cửu cửu Trùng Sơn. Còn linh hồn của Người vẫn thi thoảng hiển linh trên thung Mây, thung Gió: nửa bên này mưa nửa bên kia tạnh rào rào như lá bay đá chạy trên sườn núi. Cả trong những ngày trời quang mây tạnh nghe ở sườn bên kia véo von những điệu hát hòa cùng tiếng hót lảnh lót của khiếu rừng, tiếng vượn Bạc Má tạo ra bản hòa tấu nhiều bè âm u trầm mặc như một khúc giao hưởng của núi rừng huyền bí xa xăm siêu thực rất gần vafcungx rất xanhuiw cnooix lòng của bạn hữu, mang lại sự ấm áp nhẹ nhàng cho những tiều phu đang men theo triền đá. Đó là những cảm xúc của các bậc sơn tràng đi đẽo cây Bứng Báng về chống đói vaò nhũng ngày tháng 3 giáp hạt xưa và của những người làng chuyên nghề đốt than ngủ lại trong rừng đã cảm nhận được sự huyền bí tại cõi u linh rừng xanh núi đỏ. ( Hồn cây hồn đá hồn lá hồn hoa trong kiếp ngủ trường kỳ trong cõi u minh đôi lúc cũng giật mình tỉnh giấc nghêu ngao vũ điệu của muôn loài đã gieo vào lòng người dân vùng đất này những bi khúc hào sảng vần vũ theo những chu kỳ đã được lập trình mã hóa, không ai có thể căn cơ giải thích cho đầy đủ thấu đáo và tất cả đều trở về thống nhất rằng đó là sự bí ẩn của vũ trụ Tạo thành ( trời sinh ra vậy ). Thuyết Thiên mệnh đã được bảo lưu khẳng định như một giá trị thật. từ bao đời nay vẫn tồn tại đến thời kỳ 4. 0 này. Ở khu vực này...
Sẽ thiếu nếu như không nói gì đến Phong thổ làng Lạt sơn. Một làng đá với những bức tường rêu phong đá xám gân guốc xù xì chạy dài xa ngái. Ở đó không gian như ngưng đọng, thời gian lùi lại xa xăm với cảm giác hàng thế kỷ tồn tại tự nhiên vĩnh hằng xưa cũ với: Những cụ bà răng HẠT NA đen BÓNG chít khăn mỏ quạ, quần sắn cao quá gối, vắt trên vai những cuộn chiếu vừa giặt nước rỏ tong tong, quay quả thả bước từ cầu ao lên đường làng. Một làng quê yên tĩnh thanh bình, tồn taị ở vùng Tây sông Đáy này Khi xưa đã tùng là căn cứ chống quân Đông Hán của NỮ tướng Lê Chân.
Truyền rằng: Sau vì Trung giáo Đồng Nguyên của Minh Lý thiền sư Đinh Dương Quảng người xã Nhân Trạch, tổng Tiên Khoán, Phủ Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. Người là một vị Thiền sư đắc đạo muốn khuyến hóa dân lành nơi đây là trong sạch đạm bạc điềm tĩnh mới đổi tên Nôm là Lạt Sơn nghĩa là nhạt nhẽo với công danh thế lợi.
Bởi danh hiệu Lạt Sơn bên bộ Thủy bên chữ Các có nghĩa là mọi thứ nước chảy tụ về. Địa thư bên Trung Hoa có sông Lạc Thủy là nơi ông Hoàng Đế thấy rùa thần hiện lên trên mình có hình đồ Lạc Thư. Vì vậy vùng đất này đã ẩn chứa nhiều điều kỳ bí phía Tây sông Đáy. Trong quá trình thiên tạo xuất hiện núi non hiểm trở nhiều thế đất thiêng mà những người tin theo Phong Thủy gọi là “Huyệt”. Như ở Ba Sao có Huyệt Đế Vương, ở Do Lễ có huyệt Rồng, Ở Khả Phong có huyệt Rùa, Ở Tân Sơn có huyệt Xà, còn ở Lạt Sơn có huyệt Tượng.
( theo Truyện dân gian Kim Bảng tập II-Lê Hữu Bách).
Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta có những giai đoạn phải trải qua đêm trường tăm tối ngàn năm Bắc Thuộc. Suốt cả chiều dài đó đất nước không mấy lúc được bình yên. Dân tộc ta phải trực tiếp đối đầu với các thế lực phong kiến Phương Bắc, bị ảnh hưởng nô dịch của nền văn minh Hoa Hạ thao túng đất đai bị thu hẹp dần, một số bộ tộc Man Việt thiểu số dần dần bị Hán hóa... Đồng hóa dân tộc là thuộc tính của các đế chế tàn bạo nhằm áp đặt nô dịch, nhằm cướp đoạt chiếm hữu cả vật chất đất đai và tinh thần, nhằm xóa bỏ gia phong tập quán nhằm xóa bỏ nguồn gốc văn hóa của những bộ tộc trong cộng đồng bị nô dịch. Đó là thuộc tính Đồng hóa tự nhiên. Song song với thuộc tinhs đồng hóa trên các đế chế Phương bắc đã áp dụng phương pháp đồng hóa cưỡng chế như cưỡng bức dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ chữ viết bắt tuân thủ theo tập tục của đế chế phương Bắc. Đây là một tội ác. Mặc dù các triều đại Phương bắc đã không từ một thủ đoạn bi ổi nào nhằm thôn tính Việt
Nhìn lại dân tộc Việt người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt. Bởi lẽ khi bị Hán Hóa các thành phần ưu tú, tinh hoa của bách Việt là mục tiêu triệt hạ tiêu diệt tàn sát của NGƯỜI Hán Do đó các thành phần này phải tháo chạy trốn tránh và tìm đến mảnh đất cuối cùng của Bách Việt ngày nay là Việt Nam. Do ảnh hưởng của mục tiêu HÁn hóa dân tộc Việt. Ba bộ tộc người Việt cổ như Lạc Việt , người Thục và Ngô Việt đã phát huy gốc ren trội sự khôn khéo thông minh hòa trộn duy trì giống nòi quá trình đó đã tạo ra người Kinh hấp thụ tinh hoa của 3 tộc người trên thành một tộc người ưu tú. Như vậy tinh hoa cuả văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, và tư chất của họ không thua kém nền văn minh Hoa Hạ. Dù người Việt không có văn tự riêng (hay có mà đã bị xóa sau ngàn năm Bắc Thuộc) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc dù phải mượn Hán ngữ để ghi chép, thì đúng là một kỳ tích ,chẳng thua kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái Dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm. Sự cố kết cộng đồng làng xã của dân tộc Việt rất chặt chẽ nó đã trở thành máu thịt, thành truyền thống, Tạo thành một động lực ý thức cộng đồng rất cao. Mặc dù phải trải qua hàng ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc nhưng khả năng đề kháng chống lại sự đồng hóa của ngoại bang rất cao, các cuộc khởi nghĩa vùng dậy chống ngoại bang xâm chiếm đô hộ xảy ra liên miên không ngừng không nghỉ, như sóng thủy triều cuồn cuộn dâng trào hết lớp này đến lớp khác...
Vào đầu thế kỷ thứ nhất theo Công lịch đã xảy ra một cuộc khởi nghĩa đặc biệt của Hai chị em Trưng Trắc Trưng Nhị. Vùng dậy chống lại ách đô hộ phương Bắc Hình ảnh Áo đỏ cờ đào chói sáng rực rỡ Cỡi voi bành vàng như mặt trời chiếu rọi giữa đêm đen, vì Lãnh Tụ của cuộc khởi nghĩa cùng các tướng lĩnh phụ tá hâu như đều là Phụ Nữ đã quả cảm vùng lên chống lại chế độ bảo hộ giải phóng dân tộc.
Tháng 3 năm Canh Tý (40) Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống bè lũ thống trị Đông Hán. Hưởng ứng lời hịch của Hai Bà, thủ lĩnh và nhân dân khắp 4 quận Giao Chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân (Bắc Trung Bộ), Nhật Nam (Trung Trung bộ), Hợp Phố (Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc) đã nhất tề nổi dậy, hợp sức với đạo quân chủ lực của Hai Bà, tấn công địch ở khắp nơi. Đạo quân của Lê Chân từ mạn biển xứ Đông đánh thốc lên Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) lỵ sở quận Giao Chỉ, nơi có bộ máy thống trị của bè lũ Tô Định, phối hợp với quân của Hai Bà Trưng và các thủ lĩnh nghĩa quân khác, giải phóng quận thành. Tô Định vội vã tháo chạy về đất Nam Hải (Trung Quốc) xin quân cứu viện.
Với khí thế tiến công như vũ bão, chỉ trong 2 tháng, nghĩa quân đã chiếm được 65 thành trì, đập tan ách thống trị của nhà Đông Hán. Đất nước sạch bóng quân thù, bà Trưng Trắc được tướng sĩ, nghĩa quân tôn làm vua (Trưng Vương). Trưng Vương xét công lao ban thưởng tướng sĩ. Lê Chân khi ấy 24 tuổi, được phong là Thánh Chân công chúa, ban chức Chưởng quản binh quyền coi giữ vùng Hải Tần (duyên hải Đông Bắc). về chức vụ Thánh Chân công chúa đứng vào hàng thứ 3 sau Hai Bà Trưng. Và là một trong những công thần hàng đầu triều Trưng Vương.
Theo thần tích: “Dương cảnh thành hoàng Nam Hải uy linh Thánh Chân Công chúa do Hàn lâm viện Đông các đại học sỹ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) thì Lê Chân là con ông Lê Đạo và bà Trần Thị Châu quê ở An Biên huyện Đông Triều phủ Kinh Môn xứ Hải Dương ( nay là xã An Thủy huyện Đông Triều, Quảng Ninh). Vì Thái thú Tô Định ép làm tỳ thiếp, Lê Chân và gia đìnhkhông chiu. Tô Định trả thù lập mưu hãm hại song thân, Bà đã lánh thân về vùng An Dương cùng phủ Kinh Môn chiêu mộ quân sỹ quyết báo thù nhà đền nợ nước. Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Hán, Bà Lê Chân liền hưởng ứng nhiệt tình tham gia và đã lập nhiều chiến công xuất sắc, oanh liệt...Năm 0040 sau công lịch Cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi Bà được phong chức “Chưởng quản binh quyền, Kiêm trấn thủ hải tần” Bà được liệt vaò vị trí thứ ba sau Hai Bà Trưng.và cũng là một trong những bậc công thần hàng đầu của triều đại Trưng Vương...
Trong thời gian bà Trưng Trắc làm vua, nhà Đông Hán phải lo đối phó với biến loạn lớn trong nước, nên không thể phát quân xâm lược nước Âu Lạc. Song triều đình Hán đã sửa soạn kỹ cho cuộc đàn áp. Mùa hạ, tháng 4 năm Kiến Vũ thứ 18 (42), vua Quang Vũ phong lão tướng 58 tuổi Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân thống suất quân sĩ sang xâm lược nước ta. Mã Viện xảo quyệt, mưu mô, có tài chinh chiến, dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Lực lượng quân sự Đông Hán huy động ở mấy quân phía Nam Trung Quốc binh lính thiện chiến quen với thung thổ, khí hậu nhiệt đới, gồm 2 vạn quân chủ lực, 2000 thuyền, xe lớn, ngoài ra còn quân chèo thuyền, dân phu tải lương, phục dịch.
Mã Viện chỉ huy cả hai đạo quân, chia hai đường thủy bộ, vừa dùng thuyền vượt biển, vừa đi đường ven chân núi phát cây mở đường hơn nghìn dặm; hai cánh quân thủy, bộ không cách xa nhau lắm để còn liên hệ phối hợp với nhau. Từ vùng ven biển vịnh Bái Tử Long, Hạ Long, hai đạo quân thủy, bộ Đông Hán tiến đến cửa sông Bạch Đằng (Quảng Ninh - Hải Phòng) để vào nội địa nước ta.
Một nhà nước non trẻ , tổ chức thiếu chặt chẽ phải đương đầu vơi một thế lực mạnh mẽ dạn dầy kinh nghiệm, với nhiều mưu toan thủ đoạn...
Ba năm sau tức năm 0043 sau Công Lịch. Khi Hai Bà Trưng đã quyên sinh tuẫn tiết để bảo toàn danh tiết trên sông Hát Giang (vào ngày 06 thangs 02 âm lịch 0043)...Mã Viện tiếp tục dùng quỷ kế tấn công thấy thế giăc mạnh. Thánh Chân Công chúa liền đem một cánh quân tạm rút về xuôi theo đường Thượng Đạo đến địa phận làng Lạt Sơn dựa vào địa thế hiểm trở xây dựng căn cứ mới lập phòng tuyến chống giặc. Đông Hán. Tại đây bà đã tuyển mộ và tổ chức huấn luyện quân sỹ sẵn sàng đánh giặc. Hiện nay một số địa danh vẫn còn lưu giữ đến tận ngày nay.vì nó đã gắn liền với các sự kiện các trận đánh thời ấy như:- Thung đội Nhất, Thung đội Nhì, Quèn voi Trượt, Đồi Điểm quân, Thung Trồng (Hiệu lệnh truyền tin), Đồng Loạn v.v...
Hiện nay ở Đồng Loạn dưới chân núi Zát Dâu còn những cái chum cực lớn mà người ta cho rằng nó dùng để đựng thực phẩm hay rượu cho quân tướng thời đó.
Sau mấy tháng truy tìm đuổi theo truy kích đến căn cứ tại vùng đất Lạt Sơn đã diễn ra những trận đánh dữ dội. kéo dài từ núi Đồng Mạ, Đồi Ông Tượng, Đồi Chúc Cờ, do lực lượng mỏng bị truy kích đa phần họ đều là nông dân cầm gậy gộc giáo mác theo Thánh Chân Công Chúa. Bị quây đánh tấn công liên miên sự không cân sức đó đã xảy ra tại trận Đồng Loạn một thung lũng trong dẫy núi 99 ngọn, cách đền thờ Nữ tướng Lê Chân ngày nay hơn 3000m Thế trận gay go Quân địch đã làm chủ được tình thế, lực lượng chênh lệch. Nữ tướng Lê Chân cho tập hợp các chiến binh lại giao cho Đô Dương chỉ huy rút lui theo đường sạn đạo sang vùng đất Ninh bình, lui về Thanh Hóa bảo toàn lực lượng sau này còn ai mong muốn vê quê cho họ về. Bà ở lại chỉ huy số quân còn lại cầm cự với quân Đông Hán chừng vài tuần nhang biết lực lương rút lui đã qua được khỏi tầm truy kích của giặc. Nữ tướng Lê Chân kéo theo vài lính tâm phúc đánh thốc vào giữa trận đến chân núi Zát Dâu xuống ngựa rẽ đám lau lách ào ào treo lên núi đá, quân giặc reo hò đuổi theo tên bay vù vù nhưng chẳng có mũi tên nào đụng được vào người bà quân giặc hò nhau đuổi theo hòng bắt sống Bà. Núi cao cây rừng che trở chẳng mấy chốc đã tới đỉnh núi không kịp thở Bà ngoảnh mặt về xứ Đoài miệng lầm rầm gọi nhị Vị Trưng Vương... kịp vừa lúc đó lũ giặc ào tới gần. nữ tướng vung một đường gươm cuối cùng nhiều tên giặc rú lên khủng khiếp đổ sụp xuống và cùng lúc đó Bà cũng tung người lên gieo mình xuống vực sâu. Lúc đó mây tháng 7 mùa Ngâu cuồn cuộn từ khe núi bốc lên với muôn ngàn đụn khói như cuốn lấy thân xác bà dâng về tiên giới lau lách cây rừng đã đón nhận thân xác người nữ anh hùng gửi vào điệp trùng những vòm lá xanh tươi mờ mịt trong mưa (chiều 13 tháng 7 năm âm lịch Quý Mão - 0043) nghĩa là gần sáu tháng sau khi hai Bà Trưng tuẫn tiết(6-2- Quý Mão -0043) vì nước trên dòng Hát Giang.
Năm nay Đền Mẫu Lạt Sơn xẽ kỷ niệm 1966 năm giỗ Bà Thánh Chân Công Chúa.
ĐỀN MẪU LẠT SƠN.
Được biết rằng đã có nhiều nơi thờ Thánh Chân Công Chúa, Một trong ba người nữ anh hùng mở đầu trong thời kỳ lập nước đầu tiên Thánh nữ Lê Chân là bậc khai quốc công thần triều Trưng Vương:
-Đền Suối An Biên ở Đông Triều nơi quê hương BÀ. Theo truyền thuyết bà sinh ngày 08-2- tại đây.
-Còn hai đền An Biên ở Thành phố Hải Phòng và đền Nghè quận Lê Chân Hải Phòng . nhân dân ở đây vẫn kỷ niệm ngày Bà Mất vào ngày 25 tháng Chạp âm lịch .
-Riêng tại làng Lạt Sơn, nơi Nữ tướng Lê Chân Tuẫn tiết hóa thánh về trời. nhân dân đã lập miếu thờ , sau xây thành đền thờ gọi là đền Mẫu, vì coi Bà là biểu tượng cụ thể của Mẹ Tổ quốc. Đền tọa lạc trên sườn ngọn đồi Đền, bên sông Ngân Giang, trên đường vào rừng Lạt Sơn. Trước mặt đền nhìn ra hướng Na m là vực của sông Ngân.nhì sang bên kia là núi Lẻ Và núi con Voi . Sau lung đền phía tây bắc là ngọn núi Đồng Mạ cao hơn 400m nó giông như chiếc ấn trời đóng vào không gian làng Lạt với chu vi hơn 2km2, là nơi Người Việt cổ cất giữ nhiều Cổ vật như Rìu Đồng, Trống đồng...v.v.. hiện đang được bảo quản giũ gìn tại phòng văn hóa huyện Kim Bảng...
Ngôi đền cũ xưa, từ bến sông( dân trong làng gọi là bến Đền ) từ dưới bước lên phải qua nhiều bậc đá mới tới sân đền. Đền nằm chìm giữa rừng cây cổ thụ dây leo chằng chịt lá xanh tươi tốt quanh năm. Hai ngôi đền xây bằng đá vôi trắng – xám ẩn hiện giữa vòm lá xanh càng làm tăng thêm sự huyền bí linh thiêng u tịch, dưới bến xưa những chiếc thuyền nan bồng bềnh chèo gác mái Sông ngân nước trong văn vắt sóng gợn lăn tăn từ xa dồn tới cộng hưởng vỗ ì oăpj tràn lên bến Đền tạo nên một bức tranh thủy mặc tôn vinh cảnh u linh thiêng liêng về sự hôn phối giao hòa vô tư của dòng Ngân Giang và núi non cô tịch nơi cửa rùng Lạt Sơn. Sự thần bí nhất là vào mùa tháng 8 hàng năm sông Ngân và núi Lẻ càng kiêu sa và cô tịch, mênh mang. Với từng đàn Sâm cầm đua nhau ngụp lặn, bồng bềnh cùng những đám bèo hoa tím lung linh lặng lẽ trôi về cõi hư vô địa đàng
Nếu du khách lần đầu tiên tới đây thì xẽ bàng hoàng kinh ngạc với cảm giác như gặp cõi tiên bồng lai tiên cảnh. Làm cho Ngôi đền càng tăng thêm sự huyền bí thiêng liêng. Trong đền ngòai các đồ nghi trượng...thờ cúng, đáng chú ý có đôi rắn trắng dài khoảng 2m thờ hai bên hậu cung tạo dáng thần bí cõi thiêng giữa vàng son rực rỡ trong không gian thờ cúng.
Quý nhất là pho tượng Bà bằng đồng mầu đen, ở tư thế ngồi cao chùng 60 cm.
Pho tượng đã từng bị kẻ gian đục lưng tìm vàng yểm tâm và nhiều lần bi đanh cắp đem đi xa. Nhưng nhờ linh cảm mà nhân dân địa phương tìm được rước về.
Lần cuối cùng là vào năm 1978 bị mất hẳn. Đó là một tổn thất vô cùng to lớn. Ngày nay chỉ còn photuongwj gooxsown son thiếp vàng và ảnh Bà phóng to (Chụp lại từ đền Nghè âu cũng là thống nhất hình ảnh của Người trong thờ cúng)
Trước cửa đền dưới hàng chữ nho: LÊ ANH NỮ TƯỚNG là đôi câu đối đắp nổi:
“ Thiên vi nữ vương sinh Nữ tướng – Thần ư
Nghĩa là:”Trời vi Vua Bà sinh tương ba, Thần ơ nước
-Bởi lẽ Zát Dâu ở LAT SƠN đã được Hội khoa học Lịch sử xác nhận là nơi Bà tuẫn tiết nên đền mẫu nơi đây được coi là một trong những ngôi Đền được lập sớm nhât.
Hàng năm vào dịp Giỗ Mẫu từ ngày 10-13 tháng 7 âm lịch đông đảo thiện Nam tín Nữ ở khắp nơi từ Hải Phòng, Hà Nội , Nam Định... cùng tụ hội về đây làm lễ dâng hương, và thường tổ chức lễ tế nữ Quán. Ngoài lễ ra người ta đã yoor chức nhiều Hopoij vui như Thi bơi chải, thi đấu vật...v.v..Ngày xưa đi bộ vào vùng này trên đường sạn đạo còn nhiều khó khăn, nên có nhiều du khách bản hôi sử dụng thuyền Đinh có sức chở hàng chục ngàn tấ theo sông ngân về Lễ hội. đỗ chật cả bến Đền.Đó là chuyện ngày xưa, còn bây giờ sau khi tiến hành những cuộc cách mạng nhằm khai thác tiềm năng của vùng đất này. Những đổi thay về giao thông vận tải đã quyết định sự lớn mạnh về đời sống kinh tế của người dân làng Lạt Sơn đã lập nên một làng mới là Làng Hồng Sơn. Vào khoảng đầu những năm đầu tiên của thế kỷ 21con Đường Lê Chân nối từ Thị Xã Phủ Lý về khu công nghiệp Vật liệu xây dựng đã mở, khu vực đền Bà Lê Chân đã được Trùng tu Nâng Cấp khang trang hoành trang, và Lễ Hội đền Bà Lê Chân vẫn diễn ra đúng theo Tập tục : -Các ngày 10,11, 12 làm lễ Yết, ngày 13 Lễ Chính Thật long trọng và náo nhiệt
Trải qua bao mùa l;á rụng vật đổi sao rơi, Những biến động của Vũ trụ,của thời gian, sự thịnh suy của các triều đại vương quyền. Nhưng Công Đức của Nữ tuớng Lê Chân Vẫn vĩnh hằng tỏa sáng. Đến nay trong đền vẫn còn giữ lại Mấy ĐẠo Sắc truy phong cho thánh Chân Công chúa ghi như sau:
1.Triều vua Tự Đức: Lục niên nhất nguyệt Thập nhật truy phong
LÊ CHÂN THƯỢNG ĐẲNG THẦN - HÔ QUỐC TỶ DÂN.
2.Triều Thành Thái: Thập ngũ niên, thập nhất Nguyệt,Nhị thập nhật;
LÊ CHÂN – BẢO TRUNG HƯNG CHI THẦN - BẢO QUỐC TỶ DÂN.
3. Triều Duy Tân: Ngũ niên , ngũ Nguyệt, thập nhất nguyệt truy phong:
LÊ CHÂN – BẢO TRUNG HƯNG-THUY TINH CÔNG CHÚA CHI THẦN – HỘ QUỐC TỶ DÂN.
4.Triều Khải Định: *Nhị niên, tam nguyệt thập nhật truy phong:
LÊ CHÂN THÁNH TỔ PHỤC QUỐC TỶ DÂN
*Cửu niên thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật try phong
LÊ CHÂN PHU NHÂN – BẢO TRUNG HƯNG. TẢ HỆ ÔN, PHƯƠNG GIA HÀNH TÔN THẦN _ HỘ QUỐC TỲ DÂN.
Ngày nay di tích đền Bà Lê Chân là điểm nhấn cho khu du lịch làng cổ Lạt Sơn, Cảnh xưa hồn cũ không còn nguyên vẹn như xưa nữa. Dòng Ngân giang đang bị lấp dần không gian xung quanh khu vực đền Bà Lê Chân, và cảnh quan của Làng Lạt Sơn đang bị biến dạng thay đổi, vẻ đẹp hoang sơ đang bị xâm hại tàn phá môi trường bị hủy hoại, nguồn nước bị ô nhiễm, Khói từ những nhà máy xi măng, bụi cuốn lê mờ mịt do những chiếc xe chở vật liệu đất đá chậy rì rầm như nồi cơm sôi suốt ngày đêm. Khói bụi bốc lên cuồn cuồn kéo dài một vệt hơn ba km từ Bút Sơn tới tận La Mát –Kiện Khê. Điều đó như nhắc nhở nhũng ông chủ doanh nghiệp đang tham gia khai thác tài nguyên trong khu vực nhậy cảm trên, cùng các nhà quản lý môi trường trong tinhcần kịp thời có những giaỉ phap hữu hiệu để kịp thời giải bài toán về môi trường mà nó đang trực tiệptạo ra những con sóng địa chấn phá vỡ sự bình yên an lành nơi đây.....Con Nữa
LAIQUANGPHUCJ
Chủ đề Tiếp tục hướng về Biển Đảo - Tổ Quốc
Sáng nay 5h 30 phút tôi đã có mặt tại 171 Trần Hưng Đạo Nam Định để đi Văn Miếu Quốc Tử Giám dự ngày Thơ Nguyên Tiêu. Đúng 6 h xe chạy hơn 8 h đến Văn MIếu Năm Ngoái
Năm nay Ban tổ chức tiếp tục mở phố nghệ thuật với các quán thơ lều thơ nhằm tôn vinh nghệ thuật truyền thống như hát văn, hát xẩm, hầu bóng…, trưng bày các phướn thơ, phát hành các tạp chí , các sản phẩm văn hóa nghệ thuật của địa phương của đơn vị tỉnh mình ngành mình nên phố nghệ thuật rất tấp nập nhộn nhịp tôi có một phướn thơ in bài thơ PHÙ SA treo ở Văn Miếu Quốc tử Giám khu vực quán thơ Nam Định
Phù Sa (Xem ảnh ở dưới )
“Đồng Quê Sấp Ngửa đầy vơi
Đãi từng hạt tấm tháng mười tháng ba
Ủ mầm sương gió gia thoa
Dậy Thì Thai nghén PHÙ SA đòng đòng”.
.
Đã có đông người dừng lại đọc và chép. Cũng vào ngày này năm ngoái. Sau buổi trưa thả thơ ở Hồ Vân về tôi có viết bài “THẢ THƠ” Trang Hải Phòng.Com đã đăng Nay xin ghi lại:
THƠ THẢ , NẮNG DỒN
RÙA TỈNH MỘNG
RUNG TRỜI VĂN MIẾU
ĐỘNG HOÀNG SA
SÓNG TRÀO LÊN ĐẢO
RU MỘ GIÓ
MÃN HỒN CHẠM MẠCH
DƯỚI ĐỐNG ĐA.
PLQ Xuân Giáp Ngọ.
Năm nay thơ thả lên trời vẫn năm mươi phướn trong đó 1/2 là các câu thơ hay của các nhà thơ Việt
Thạch Lạn
ANH MA
Cứ như U tôi kể lại, thì cái vùng quê nhà tôi là lắm ma nhất nước. Nào là ma ru con trên cây gạo ở đầu làng Bún lúc chạng vạng tối. Nào là ma đi chợ Huyện ăn bánh đúc lúc sáng sớm. Nào là ma đi tát nước lúc nửa đêm… Tất cả những chuyện ma này, U tôi bảo đều có những người đã gặp và ở những địa điểm rất cụ thể. Nhưng, những nhân chứng đó đều cũng đã hóa ma từ lâu lắm rồi. Nên chẳng còn gì để kiểm chứng. Dẫu vậy, tất cả bọn con nít chúng tôi đều tin những chuyện ma mà U tôi kể là hoàn toàn có thật. Và U tôi cũng nói thêm rằng: Sơn ăn tùy mặt, ma bắt tùy người. Nghĩa là chỉ có những người yếu bóng vía thì ma mới bắt nạt và hay gặp ma thôi, còn những người cứng bóng vía thì ma nó sợ, nên chẳng bao giờ gặp được chúng. Tôi thì chẳng hiểu thế nào là yếu với lại cứng bóng vía, nhưng thật sự đã có lần tôi bị ma đuổi đến nỗi: Quấn ra đài… nghĩa là: Đái ra quần, theo cách nói lái của dân
Chị cả tôi lấy chồng ở làng Bún, cái làng có cây gạo mà cứ chạng vạng tối là ma lại ru con ời ợi trên cành (Theo lời U tôi kể). Cái cây gạo ấy nằm ngay cạnh con đường duy nhất nối làng tôi và làng Bún. Xung quanh gốc cây gạo, những bụi dứa dại cao quá đầu người mọc um tùm. Sát chân cây có một ngôi miếu hoang, không biết ai xây và xây tự bao giờ? Ngôi miếu ấy đã cũ kĩ, rêu phong cùng thời gian. Nó chỉ được nhang khói mỗi năm một lần vào dịp rằm tháng Bảy (Rằm cúng cô hồn, xá tội vong nhân) do những người qua đường thắp để cầu xin điều gì đó. Mọi người truyền tai nhau là ngày xưa: Có hai mẹ con người ăn mày đã nằm ôm nhau mà chết ở gốc gạo này vì đói quá. Cho nên từ bấy đến nay, hai oan hồn ấy vẫn cứ mỗi chiều muộn lại hiện lên trên cành gạo để ru nhau, kéo dài khúc ca bi ai về nỗi đói khổ tột cùng của vùng đất chiêm khê, mùa thối… quê tôi.
Tất nhiên là tôi tin và sợ hai mẹ con nhà ma trên cái cây gạo ấy lắm lắm… Nhưng khổ nỗi, cái con cháu con bà chị cả tôi, thỉnh thoảng nó lại nhắn rằng:
– Cậu ơi, chiều nay mẹ cháu lại nấu bầu với lạc, cậu xuống ăn với cháu nhé… Cái thời tôi chín, mười tuổi, cả vùng quê nhà tôi đói rã rượi. Món bầu nấu với lạc có một mãnh lực khủng khiếp, đánh bạt mọi nỗi lo ngại, đủ để tôi quên sự đối đầu với mẹ con nhà ma ở gốc gạo nọ. Tôi nhớ như in cái lần… Ma đuổi… ấy với tất cả những chi tiết nhỏ nhất. Hôm đó chắc là vào trung tuần tháng sáu. Chập tối trăng đã sáng vằng vặc. Sau khi húp hết bát canh bầu và nhai thêm vài củ dong giềng, (loại dong thường để làm miến) tôi và con cháu, ba chân bốn cẳng chạy vù sang hàng xóm nhập hội với lũ bạn chơi trốn tìm. Mải chơi, đêm khuya lúc nào không hay. Đến lúc con cháu liêu xiêu đến cạnh tôi đòi về, vì nó đã buồn ngủ quá. Tôi ham chơi nên bảo nó là chờ thêm một lúc. Nó không chịu mà làu bàu nói rằng:
– Thế cậu không sợ ma ở cây gạo à? Hay đêm nay cậu ngủ lại nhà cháu mai về sớm.
Tôi như bị dội một gáo nước sôi vào đầu. Bố khỉ! Thật là tiến thoái lưỡng nan. Về thì sợ, mà ngủ lại nhà chị tôi, thì đúng là: Vạch áo cho người xem lưng. Ban ngày khi nói chuyện ma, tôi luôn tỏ ra xem thường hết thảy bọn ma quỷ. Tôi trở thành thần tượng của con cháu tôi, bởi nó là đứa sợ ma nhất trên quả đất này. Và tránh cho sự sụp đổ của thần tượng, tất nhiên là tôi phải chọn giải pháp kinh hoàng nhất… đó là trở về nhà tôi.
– Vớ vẩn, tao mà lại sợ à!!!
Tôi quát con cháu, nhưng chính là tự trấn an mình. Sau khi đưa cháu vào nhà tôi quay ra, đứng thẳng, hít một hơi thật sâu và chợt nhớ lại lời U tôi nói: Sơn ăn tùy mặt… Ma bắt tùy người. Trời ơi! Câu này phải nói là câu hay nhất trong tất cả những câu chuyện ma mà U tôi vẫn kể. Tôi tràn trề hi vọng về một ngoại lệ nào đó dành cho mình. Cùng với niềm hi vọng ấy tôi tiến bước. Chỉ sau vài phút, cây gạo đã hiện ra ở phía trước. Lúc này tôi bắt đầu có cảm giác là lạ. Không gian ở đây hình như đang rộng ra đến vô cùng. Cả cánh đồng cày ải mênh mông, bỗng rực lên một màu trắng bạc ma quái. Còn cây gạo cùng với những bụi dứa dại thì đen sì và hình như chúng cứ cao lên, cao lên mãi. Trong tai tôi văng vẳng tiếng kẽo kẹt của cái võng đay, tựa tiếng nghiến răng tức tưởi, lúc gần lúc xa làm bước chân đầy dũng khí của tôi chùng lại. Câu nói: Sơn ăn tùy mặt… của U tôi, lúc này hình như không còn đúng lắm!!! Tôi ngồi thụp xuống ven đường, nghe thấy cả tiếng tim mình đập ùm ụp. Tay tôi chống xuống hàng đất vẫng cầy, những cục đất khô cứng chạm vào những ngón tay, làm lóe lên trong tôi một phương án cực kì tuyệt diệu vào lúc tuyệt vọng nhất. Đúng, tôi phải bất ngờ tấn công mẹ con nhà ma, trước khi chúng phát hiện ra tôi mà giở trò gì đó. Nghĩ sao làm vậy, tay tôi lựa cục đất khô và vừa tay, lao về phía trước, vận hết công lực ném cục đất với vận tốc cực mạnh về phía cây gạo và chạy lướt qua vùng ma quái ấy với tốc độ có lẽ là còn nhanh hơn tốc độ của chú Mèo đi hia trong phim thần thoại của Liên Xô mà tôi hằng yêu thích. Nhưng: “Mưu sự tại Nhân, thành sự tại Thiên”… Một chữ “Ngờ” to tướng đã phản tôi trong những bụi dứa dại kia, nhưng tôi đâu có biết.
Số là: Khi nghe thấy tiếng bụp… mà cục đất táng vào thân cây gạo vọng đến tai tôi, thì đồng thời một tiếng phụ nữ cũng la lên ôi ối… Khi nghe thấy tiếng la khiếp đảm ấy, tôi không còn chạy nữa. Tôi như bay là là trên mặt đường, toàn bộ cơ thể tôi như rơi vào vùng không trọng lượng. Sau này lớn lên tôi biết rằng: Đó là trạng thái mà các nhà du hành vũ trụ vẫn gặp khi họ bay vào tầng khí quyển của trái đất. Vậy mà tôi chẳng tốn kém một đồng xu, chỉ cần cục đất ném ma, tôi cũng bay được vào vũ trụ như họ… Khi còn đang lửng lơ như vậy, tôi bỗng thấy trời đất tối sầm, một bàn tay cứng như thép bóp lấy gáy dựng tôi dậy ( hóa ra từ nãy tới giờ tôi bị quýu chân nằm phủ phục trên mặt đường, chứ có bay nhảy chi đâu!!! ). Một tiếng quát rền vang như tiếng sấm mùa hạ làm tôi lọng cả óc:
– Oắt con, tại sao mày lại ném chúng tao? Muốn chết hả!!!
Một cảm giác lạnh buốt, chạy từ đầu xuống chân làm tôi đông cứng lại. Có luồng nước nong nóng không biết từ đâu làm ướt cái quần đùi đang mặc, chảy xuống hai chân làm tôi dần dần tỉnh lại. Tôi nhận ra giọng cái “con ma” đang bóp gáy tôi.
– Anh T à… em đây ạ … em chỉ ném để dọa mẹ con nhà ma thôi. Em có biết anh ngồi trong ấy đâu.
Một tiếng cười của phụ nữ khúc khích sau bụi dứa. Bây giờ thì tôi đã hiểu tất cả. Tôi ngây ngô hỏi anh T:
– Thế anh chị không sợ ma à???
– Ma cái con khỉ, mày ném đúng vào cái lúc… Mất cả hứng…
Anh T chợt ngừng lời vì biết đã nói lỡ miệng, quay ra quạu với tôi:
– Khiếp, khai bỏ mẹ. Mày đái cả ra quần rồi, biến nhanh đi, anh mày mà biết lại cho một trận tuốt xác.
Bây giờ tôi mới ngửi thấy cái mùi khai nồng nặc của chính mình!!! Ngượng chín cả người, tôi quên chào anh T, phi thẳng một mạch về nhà… Phiêu dạt bao nhiêu năm, tôi trở lại làng xưa cũng vào một buổi chiều giữa hạ. Tôi xuống xe khách ngoài quốc lộ, rồi đi bộ vào làng. Mọi cái đã khác xưa nhiều lắm. Người trong xóm có xu hướng tràn ra hai bên quốc lộ để ở. Làng quê đang “phố hóa” khá rõ. Trên con đường vào làng, tôi không gặp một người quen nào. Đi ngược chiều với tôi toàn là những thanh, thiếu nhi mới lớn. Ở chúng, từ quần áo, giày dép đến tóc tai… đều phảng phất bóng dáng các diễn viên Hàn Quốc… Thời đại của chúng nó đã khác xa thời đại của chúng tôi. Vào gần đến làng, một ông lão tóc đã bạc trắng, dáng gầy gò từ thửa ruộng sát đường bước lên. Chưa nhận ra ai, nhưng đoán chắc ông ta là người cùng thời đại với mình, nên tôi cất tiếng chào trước: Chào cụ.
– Không dám… chào ông!
Tôi và ông lão chợt khựng lại, bởi cả hai chúng tôi đều cảm thấy có một điều gì đó ngờ ngợ. Rồi bỗng lão nói như quát, như dỗi:
– Cụ cái đếch gì, mày bán xới lâu không về, chẳng còn nhớ ai nữa phỏng???
– Ôi… Đúng là giọng của “Con ma” ngày xưa đây! Bây giờ thì tôi biết lão là ai rồi.
– Cụ là… Anh Ma hả!!! Mấy chục năm rồi mà còn thét lác ra phết.
Lão ngoác mồm ra cười, tôi thấy răng Anh Ma chỉ còn lơ thơ vài chiếc.
– Mày là thằng Dầm chứ gì? Đồ nhớ dai như đỉa!!!
– Thế bây giờ thành Ông gì rồi???
– Em vẫn là thằng Dầm thôi, chứ ông với bà chi!!!
Anh Ma và tôi rẽ vào một quán nhỏ đầu làng. Mùi rượu nếp từ những chai nút lá chuối tỏa ra thơm ngát. Kỉ niệm của quá khứ theo dòng chảy của rượu òa ập vây bủa lấy tôi và anh Ma. Sau cái đêm ma đuổi ấy, anh T và vợ của anh ấy (cái cô gái cười khúc khích sau bụi dứa…) đã bị mất tên cúng cơm. Tất cả mọi người (cả làng, cả xã) chỉ còn gọi họ một cái tên duy nhất đó là: Anh Ma, chị Ma, thằng Ma, cái Ma… Còn tôi thì bị gọi là: Thằng Dầm… nghĩa là sợ quá… tè… cả ra quần ấy mà. Gọi mãi rồi cũng quen, anh Ma, chị Ma, thằng Dầm… Và câu truyện cười: Ném ma của tôi mọi người ai cũng thuộc lòng và kể vanh vách, trở thành một phần kỉ niệm về quê hương, của tất cả những người cùng một thời xưa cũ.
– Thế anh chị được tất cả mấy con ma con?
– Sáu con vịt giời!!!
Anh Ma chiêu một tợp rượu, mặt tỏ rõ sự bực bội, thất vọng của cái kẻ chỉ được ngồi… “mâm dưới”, theo cách nói đểu của cánh đàn ông quê tôi. Thấy thế tôi cũng chọc thêm:
– Thì đúng rồi… ai bảo anh chị lại chui vào cái miếu của hai con ma nữ để tỏ tình… Thế sáu con vịt ấy đã bay hết chưa?
– Bay hết rồi… Tao ngu thế không biết. Cứ cố để kiếm lấy cái gậy… bây giờ mới khốn nạn, chưa đến sáu mươi mà mày đã gọi tao là cụ… chán bỏ mẹ. Mà làm đếch gì còn cái miếu với bọn ma cây gạo của mày nữa!
– Sao vậy?- Tôi sửng sốt hỏi.
– Ủi hết rồi. Người đông, đất chật. Người chiếm hết chỗ của ma rồi. Chỉ còn tao là cái thây ma sống đây thôi!
Anh Ma ngừng nói, mặt buồn như mùa lá rụng. Tôi rót đầy cho anh rồi chúng tôi cạn ly. Thôi anh Ma ơi, đừng buồn mà làm gì. Thời đại đã sang trang rồi. Mọi cái đã đổi thay. Nhưng chỉ có một điều chẳng bao giờ thay đổi trong tôi đó là: Cây gạo ở làng Bún vẫn mãi mãi còn đó, rồi cứ mỗi tháng ba lại bung ra những bông hoa đỏ rực, cháy hoài trong kỉ niệm tuổi thơ tôi. Và bất kì tôi sống ở đâu trên trái đất này, màu hoa gạo thắm hồng ấy cứ vẫy gọi tôi nhớ về quê hương mình, một vùng quê nghèo khó của vùng đất… Rốn đồng chiêm… Sống ngâm da, chết ngâm xương… nhưng luôn lung linh rực rỡ bảy sắc cầu vồng suốt một thời thơ dại của tôi. Và trên cây gạo ấy, nhất định là cứ mỗi chiều muộn, hai mẹ con nhà ma lại hiện lên trên cành cây mà ru nhau ời ợi. Nhưng không phải ai cũng nghe được tiếng ru của chúng đâu. Bởi vì: Sơn ăn tùy mặt… Ma bắt tùy người… Như lời U tôi đã nói.
HOÀNG THẢO CHI
3. Sông Ngân
Mùa nước đứng trước sự mênh mông kỳ vỹ của dòng sông quê, tâm hồn non nớt, mềm yếu, đầy nhạy cảm của tôi hay thường bị ám thị bởi sự dạt dào đầy mê hoặc của cận cảnh hình ảnh sông Ngân. Nếu núi Đồng Mạ là (+) mang đặc tính
mạnh mẽ của phái mạnh (dương tính) là cha, thì Sông Ngân là (-) mang đặc tính của phái yếu (âm tính) là mẹ. Sông Ngân như người mẹ diụ hiền tần tảo, cần mẫn, dâng hiến cho quê hương tôi. Sự mênh mông êm dụi ngọt ngào, cung cấp nguồn năng lượng tươi mát chắt ra từ các mạch nguồn tinh khiết, như những dòng sữa mẹ đã nuôi nấng người dân quê tôi từ ngàn đời nay. Thật có tội nếu không viết một điều gì đó về dòng sông ẩn chứa muôn vàn huyền tích và trầm lắng trong huyền thoại mang đậm bản sắc, âm hưởng, hơi thở của núi rừng đất đai đồng ruộng làng Lạt Sơn quê tôi… (Núi Đồng Mạ và dòng sông Ngân. ảnh Thạch Lạn)
Sông Ngân có từ bao giờ. Điều này không ai có đủ kiến văn trả lời chính xác câu hỏi đó ngay cả những cụ già, già nhất trong vùng cũng không thể giải thích rõ ràng và rành mạch về sự vận động biến thiên để tạo ra dòng sông. Có lẽ truyền thuyết về một Long thần bị giam giữ dưới chân núi Đồng Mạ chỉ là một cái cớ vi diệu để nói về ngọn nguồn của sự hình thành tự nhiên (thiên tạo, nhân tạo ra những chi lưu của dòng Ngân Giang mà tôi trình bày ở bài viết này). Một sự vô tình trong cái ngẫu nhiên của một quy luật tự nhiên chi phối mà khai sinh ra nó, với trách nhiệm điều tiết cân bằng sự sống ở khu vực vùng bán sơn địa, nơi mọi nguồn nước đều dồn tụ về đây, dưới quần thể núi Đồng Mạ này…Tôi chỉ biết rằng đứa trẻ mục đồng như tôi lớn lên ở vùng quê này có cánh đồng chiêm trũng sâu nhất vùng và cũng có cả những ngọn núi cao nhất với những thung lũng quèn đá gập ghềnh (đó là cảm nhận của tôi về quê hương mình ở tuổi chăn trâu đuổi vạc. Vâng tôi xin được nói đôi chút về một nhánh của những kỷ niệm của những ngày thơ ấu, bởi cái cây kỷ niệm của cuộc đời tôi từ khi có nhận thức đến nay nó vẫn vô tư xum xuê phát triển ra nhiều nhánh, nhiều cành phủ lấp lên nhau)… Trong những gia đình nông dân quê tôi xưa thường có rất nhiều các loại nông cụ như: cày, bừa, dao, liềm, hái, quang gánh, đòn gánh, đòn càn, đòn xóc, …xong có một loại dao không thể thiếu trong tất cả các gia đình đó là dao Quắm, dao Quắm quê tôi có hai loại một loại ngắn: Nó dài cả chuôi khoảng 50, 60 phân là cùng đầu mũi dao cong như mũi liềm ngoài chức năng chặt chém còn có khả năng giật kéo, Còn dao Quắm dài phần lưỡi cũng như vậy, chỉ có phần cán dài thêm đến hơn một mét nó chính là một loại công cụ đặc biệt của người dân quê tôi hay cũng có thể coi nó là một loại vùa là công cụ vừa là vũ khí đặc trưng cho nền văn minh lúa nước, vì nó có thể chặt cắt lôi kéo từ các loại cỏ cây lau sậy, đến cả cây rừng khi khai khẩn mở mang đất đai ruộng vườn nó chính là biểu trưng của người Việt Cổ (hình tượng con dao quắm dài chính là con dao phát theo âm ngữ Hán Việt nó chính là chữ (rịt) mà dần dà người ta gọi nó là chữ Việt ngày nay). Một đặc trưng mà không thể không nói tới về sự ra đời người Việt cổ gắn liền với hình ảnh con dao quắm). Để thích nghi với vùng đất giao thoa như vậy người dân làng Lạt Sơn quê tôi dù là gái hay trai, nam hay nữ lớn lên đến tuổi thứ năm, thứ sáu phải vượt được quèn ba bước cuối làng, phải vượt được cánh rừng Nội vào đồng Hấm bẻ ngô, Biết cỡi trâu giữa đồng nước mênh mông vào mùa tháng tám) và phải hải biết mò cua, bắt ốc.v.v.. Phải chăng đó là nguyên bản truyền thống của huyền tích về cội nguồn Âu Cơ và Lạc Long Quân sự giao thoa giữa núi và sông, rừng và biển đã được gói gọn trong một phần lý tính có sẵn tiềm tàng trong người dân quê tôi (vùng bán sơn địa nhưng chằng chịt ao hồ sông ngòi). Vâng xin được tiệm cận tìm về những hoài niệm của những ngày đông đầy cảm xúc đáng nhớ vì tác động của ngoại cảnh thiên nhiên chi phối một cách đa đoan làm tôi đôi lúc nhớ lại cũng không khỏi rùng mình khi nghĩ đến cái đói và cái rét của những thập niên 60, 70 của thế kỷ trước. Trong khi đó Sông Ngân vẫn vô tư cần mẫn nhận nước về và chậm rãi chuyển đi lặng lẽ, lạnh lùng. Làng tôi như ốc đảo bồng bềnh mênh mông trong sóng nước chỉ những con Sâm cầm vô tư thản nhiên ngụp lặn chập chờn trong cõi mênh mông chúng thoải mái đắm mình trong làn nước xanh trong ngăn ngắt lặng lẽ hưởng thụ những bữa tiệc cá tôm chính hiệu tự nhiên từ dòng Ngân giang vô tư cung cấp mà không phải cắt ô tem phiếu nào đó là sự bao cấp tự nhiên của trời cho nên chúng thản nhiên hưởng thụ trong không gian êm đềm lặng lẽ bình an vốn có của dòng Ngân giang muôn đời trầm mặc trước những bóng núi sừng sững ngang chiều đổ xuống như úp mặt xuống dòng sông tạo nên một khoảng tối xẫm như ai vừa đổ một cậu mực lớn lên dải lụa xanh thiên thanh.Xa xa những phiến lá bình trang, và những cụm bèo tây chập chờn vô tư thản nhiên tồn tại thỉnh thoảng có một vài chú cá búng nước bói động dưới chân đám bèo tạo thành những vòng sóng nước xao động lăn tăn một cách ngẫu nhiên như nó vốn có từ ngàn đời nay, Thỉnh thoảng trên sườn non ghềnh đá Bồ Vô vọng lại tiếng những chú dê kêu be be nhảy tung tăng trên sườn đá, cao và thấp trên và dưới đá và nước mênh mông và chon von hùng vĩ đã khắc lên bức tranh thủy mặc trang điểm cho dòng sông thêm đôi chút thi vị, phấn son đầy gợi cảm hoang dã, kiêu kỳ đa đoan chế ngự tao nhân mặc khách đánh thức dư âm cảm khái phải lòng của những thi nhân trước cõi hư vô như mơ như tỉnh như lạc giữa cõi thần tiên xa la, và kia ngôi đền thiêng thờ Thánh Chân Công Chúa rêu phong cô tịch ẩn mình trong những bóng cây cổ thụ um tùm, trước cửa đền những chiếc thuyền nan xếp một hàng dài gác chèo trên bến, bậc đá lên đền rêu phong phủ kín như từng chưa có bước chân ai dẫm đạp lên, tất cả như còn trong nguyên vẹn vĩnh hằng. Đó là khung cảnh của hơn 40 năm về trước sự trinh nguyên như là sự tồn tại vốn có của ngôi đền cổ không xác định nổi biên niên của nó có từ bao giờ. Nó như có từ thuở khai thiên lập địa.
Tôi vẫn bị ám ảnh bởi mùa đông ken nước đặc quánh ngăn ngắt xanh canh như thạch, tôi đi vớt bèo cho lợn nhúng chân xuống cái lạnh tức thì thẩm thấu tạo ra một phản xạ như điện giật làm cả thân thể nhỏ nhoi của tôi run lên trong giá rét căm căm. Những ngày cuối năm ở xứ Bắc rét chết cả trâu. Những chú trâu chú nghé đói ăn không còn năng lượng để chống rét nên phát cước ngã quỵ. Ở quê tôi thuở đó việc chăn thả trâu bò đều tuân theo quy luật tự nhiên trâu thả tự nhiên trên đồi trong rừng ngoài đồng cây khô lá vàng gầy rộc quỵ ngã trước giá lạnh mùa đông. Mùa hè phổng phao bao nhiêu mùa đông lại gầy tóp hoe hắt đàn gia xúc trong làng lại vơi đi quá nửa, vì chuồng trại trống hoác rơm cỏ thiếu, công nghệ chăn nuôi phóng sinh kệ trời kệ đất chỉ thương những vật nuôi cũng phải gồng mình chống chọi với giá lạnh đói rét do nghèo đói thiếu hiểu biết…Ngày ấy điều kiện sống nói chung rất thấp con người còn không đủ điều kiện chống rét vẫn còn nhiều thiếu thốn lúc đó khái niệm về tất, găng nghe xa lạ không mấy ai bàn tới. trong nhà người ta chống rét bằng ổ rơm, sưởi bằng củi trước đó người ta đã phải đào gốc cây chặt củi phơi khô dự trữ để phòng mùa đông và để đến tết nấu bánh chưng. Nhà cửa tuyềnh toàng, vách đất long lở cửa bằng phên thuyền , phên cót trống hoác gió heo hút, cái lạnh trong nhà và ngoài trời ngang nhau, tất cả đều cân bằng với tự nhiên. Nên sờ vào cái gì cũng giá buốt, càng gần đến tết cổ truyền càng rét. Tôi nhớ ngày còn nhỏ ở quê buổi sáng đi chăn trâu nhặt được cả cò chết rét, còn cá thì nhặt được nhiều lần. Là vùng đồng chiêm buổi chiều đông lạnh giá nước ruộng lưng đầu gối tôi lội xuống cố bước thật đều và thật sâu từ đầu bờ này sang đầu bờ kia. đánh dấu xuất phát điểm bằng một cây sậy nhỏ, hôm sau sáng tinh mơ tôi mang một cái nơm nhỏ và một cái giỏ đeo bên mình theo đúng tuyến đã lội chiều hôm trước cứ thấy vũng chân nào đùng đục úp nơm xuống thò tay vào là bắt được cá ( gọi là cá Mánh) thực ra nó đã lạnh cứng chỉ còn hơi ve vẩy đuôi mà thôi mang nơm chỉ làm vì. Đồng quê tôi xưa nhiều cua cá lắm nhưng vài chục năm trở lại đây nguồn lợi thủy sinh đan rơi vào tình trạng cạn kiệt. Khái niệm đồng chiêm cũng đã thay đổi. Tôi mừng cho sự thay đổi, song những kỷ niệm đó vẫn không phai mờ trong ký ức mặc dù đã trải qua hơn 50 năm. Đọc bài tết quê của Hoàng Văn Luận tôi nhớ lại khoảng tết năm 1967. 1968 tôi học cấp ba trường huyện phải đi bộ 15 km theo hành trình sáng dậy từ 3h sáng vừa học bài vừa nấu cơm thường là gạo ít nấu độn với ngô hoặc sắn lát khô vùi bếp tro gần bốn 4h sáng là ăn cơm nhiều bữa dậy muộn nấu vội phải ăn cơm chưa chín đi học mà chẳng đau bụng đau bão gì, lầm lũi đi đến giữa làng gặp Quân, Tuấn đến đầu làng gặp Quốc thế là 4 thằng vừa đi vừa chạy đến Đồng Hóa cũng vừa kịp giờ học. Sang học kỳ hai năm lớp 8 gần tết mình được bình xét ưu tiên do học lực khá và gia đình ở xa nên được mua một chiếc xe thiếu nhi CCCP.( truyện mua xe mình xẽ kể vào dịp khác). Chỉ có điều giai đoạn đó đói lắm cái gì cũng thèm gần tết mẹ mình bảo thôi giành thùng gạo dấm dé này để nấu vò rượu uống tết. Bạn có biết gạo dấm dé là gạo gì không ( ở quê mình gọi loại lúa nếp cấy gần với lúa tẻ nên khi thụ phấn nó mang cả đặc tính lúa tẻ và lúa nếp nên ăn cứ sậm sựt dở nếp dở tẻ hay hay, thuộc loại ái). Nhưng thời kỳ đó cấm nấu rượu lậu ai nấu mà bị bắt thì khong còn gì để nói. Ngày xưa dân quê học hành ít chữ nhưng có ý thức trách nhiệm va đức hy sinh chịu đựng hơn ngày nay nhiều. Cùng bất đắc dĩ lắm họ mới xé rào phạm luật. Việc bóp mũi lợn vào dịp tết hay nấu rượu lậu là vậy, nên cần thiết lắm mới phải nấu. Còn quê mình vùng bán sơn địa nên thường hay nấu cả rượu sắn nữa. Lại nói chuyện mua men rượu, năm đó mẹ mình bảo rằng: - Con có xe rồi vòng theo đê sông Đáy xuống Văn Lâm đến nhà bà Quyền mua cho mẹ một vò men nhé. Khái niệm men rượu tồn tại theo mình từ ngày đó, Phải công nhận gạo say không giã để cả vỏ nấu thành cơm trộn với men rượu chưa ủ đã thơm ngào ngạt nên nấu rượu dễ lộ lắm, mình nhớ đêm nấu rượu mẹ mình nấu bố phải canh. Cũng may thường nấu vào những ngày giáp tết cũng đỡ vì hình như cả làng đều nấu và nấu lúc đó dân quân làng họ cứ tưởng là nấu bánh chưng nên cũng đỡ lo ngày ấy dân mình chấp hành pháp luật nghiêm lắm từ bần cố nông những người cuối cùng ở tầng đáy của đáy cũng nghiêm túc vô tư chấp hành pháp luật vì thực ra họ có gì để mà mất đâu xong đức tin của họ cao lắm tôn trọng hương ước, có tâm với làng, họ răm rắp chấp hành, họ răm rắp nhịn đói chịu đựng gia khổ vì kháng chiến họ thực hiện nghĩa vụ một cách nghiêm túc. Những năm tháng đó chỉ vào dịp tết dân làng tôi mới có cơ hội được giấy phép sát sinh: Mấy nhà chung nhau giết một chú lợn để ăn tết sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ đầy đủ với nhà nước và chỉ lúc đó sau một năm trời họ mới được ăn mấy khúc dồi lợn và thịt ba chỉ luộc...Tôi nhớ chuyện “Bóp mũi Lợn” trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ có nhiêu chuyện cười ra nước mắt. Thuở ấy mọi sản phẩm nông nghiệp mà nông dân sản xuất ra đều phải đóng nghĩa vụ…Tỷ dụ như chăn nuôi lợn từng hộ gia đình đều được giao chỉ tiêu nghĩa vụ đóng góp. Như gia đinh tôi đăng ký nuôi lợn nái để cung cấp giống cho các hộ xã viên hợp tác xã nuôi phải nuôi đủ hơn một tạ lợn giống mới đủ chỉ tiêu Hợp tác xã giao. Do mát tay năm nào gia đình tôi cũng vượt. Khi hợp tác xã cân lợn xong thì thương mại xã cấp cho mấy cân tem phiếu mua thịt ở cửa hàng mậu dịch của Huyện, thỉnh thoảng họ cũng tổ chức lưu động về bán ở khu vực xã, vì ở xa nên gia đình tôi không mấy khi mua được thịt theo phiếu phân phối, mà thực ra cũng chẳng có tiền mà mua, nên những tem phiếu đó thường cho gia đình khác mua cũng có đợt để quên quá hạn đành bỏ phí. Năm 1968 tháng tư con lợn nái nhà tôi đẻ nhưng lại thừa con vì tính theo số vú của lợn mẹ chỉ để đúng số con theo sô vú của lợn mẹ. Nhưng lứa này lợn mẹ sinh thừa ra một con. Bố tôi bảo với mẹ tôi: -Tách nó ra nuôi bộ để tết nếu thằng lớn ở chiến trường về thì thịt bóp mũi cho nó ăn lâu rồi nó không về, mẹ tôi bảo: -Đang đánh đấm tùm lum như vậy biết sống chết ra sao mà về được. Bố tôi nói: -Năm nay thể nào cũng có một thằng về. mẹ tôi mừng lắm hỏi : -Sao ông biết. Bố tôi nói: -Tôi đã nghiệm nhiều rồi, hôm vừa rồi tôi quét dọn bàn thờ tự nhiên thấy ngón tay trỏ bên trái động đậy rơi cả cái chổi đót đang quyét… Sau này tôi hỏi lại ông cụ về hiện tượng ngón tay trỏ động đậy của cụ thì cụ nói: -Bố phát hiện ra hiện tượng này từ thuở ngoài 40 tuổi nhiều lần xuất hiện như vậy đều mang lại cho bố những điều tốt đẹp. Do đó bữa đó bố tôi nói với mẹ tôi như vậy là có căn cứ có lẽ cái trường sinh học tạo ra dòng điện thần giao cách cảm của bố tối với các người thân có cùng mã số cài đặt nên có sự báo ứng như vậy hoặc cũng do vì nỗi nhớ mong của bố mẹ tôi với hai người con trai lớn nhất nhà đang ở chiến trường là khôn nguôi, nỗi mong nhớ con đã ngày đêm trăn trở trong lòng, nên bố tôi buột mồm nói ra là thể nào anh tôi cũng xẽ về. Song điều dự đoán của bố tôi đã thành sự thật. Năm đó cách tết hơn mười ngày anh cả tôi đột ngột trở về từ chiến trường. Anh về cả nhà tôi sững sờ mẹ tôi khóc nức nở vì sung sướng người con trai trưởng của gia đình là một sỹ quan quân đội nhân dân Việt nam đeo lon thiếu úy bằng xương bằng thịt đứng sừng sững giữa nhà ba lô trên vai, tay sách cặp công vụ đen. Chúng tôi ùa lại rối rít bên anh, chú út còn nhỏ chưa biết gì cứ đứng nhìn chân chân. Bố tôi bận với đàn gà ở đằng sau thấy chúng tôi gọi ông lật đật vào nhà trông thấy anh tôi ông vỗ vào vai nói: - Anh đã về tôi nghĩ anh xẽ về vào dịp này mà, Thế đi đường có vất vả không nó đánh phá thế tôi lo cho anh lắm. Như vây anh trai cả của tôi trở về hậu phương với nhiệm vụ đi thẩm tra lý lịch kết nạp Đảng cho mấy đồng chí trong đơn vị, thế là một công đôi việc anh kết hợp tranh thủ về thăm nhà mấy ngày. Cả nhà tôi mừng lắm ríu ra ríu rít, bà con hàng xóm kéo đến thăm chật nhà mẹ tôi phải nấu một nồi nước chè to đến hơn 11h giờ đêm vẫn chưa hết người làng đến hỏi thăm. Khi mọi người về hêt bố tôi bảo: - Gần tết rồi nhiệm vụ của anh đơn vị giao rất quan trọng anh cần tranh thủ làm ngay tôi đã mua cho anh cái xe phượng hoàng mới tinh bằng tiền phụ cấp đi B và bán mấy yến đậu xanh. Tôi bảo với mẹ anh thế nào cũng phải mua một chiếc để các anh về có cái chúng nó đi. Không ngờ thế mà đúng. Anh tôi mừng quá nói: -Con đang lo về quê mượn xe đâu mà đi. Nhà mình cũng như trong làng trong họ mấy nhà có xe đạp đâu. Con đi mấy tỉnh khu vực đồng bằng Bắc bộ bằng xe đạp cho tiện vì cũng ghé thăm một số nhà các anh em đồng đội của con nữa, con cố gáng đi khoảng hơn một tuần sau đó về ăn tết với gia đình là vừa kịp tết. Tết đó nhà tôi vui như hội tết đã vui nhưng tết năm nay nhà tôi càng vui hơn. Có một việc đó là phải bóp mũi con lợn thừa vú mà bố mẹ tôi chăm sóc nuôi đa được khoảng 7 tháng tuổi nhưng chỉ nuôi bằng cám và bèo tây nên nó chỉ nặng khoảng hơn 20 kg. Hôm bóp mũi nó thật đáng thương vì nó phải chết đó là quy luật của nhân sát vật rồi song sự ra đi của nó cũng kỳ dị để tránh khi giết nó mà nó kêu eng éc mà lộ ra dân quân trong làng đến bắt ngay bị tịch thu và nộp phạt điều ngán nhất là bị thông báo trong làng trong xã về việc vi phạm thì xấu hổ lắm. Để thực hiện việc làm thịt chú lợn 20 kg này bố tôi phải mang một cái vại để ở góc chuồng lợn, sau đó đổ đầy nước vào vại chờ đó, ông chuẩn bị mang cái dọ lợn vẫn để trên gác bếp nan còn vàng óng đầy bồ hóng xuống lặng lẽ vào chuồng lợn ông đặt cái rọ lợn đón lõng ở cái góc mà thể mào khi đuổi con lợn phải đi qua đấy, còn chú em sau tôi nó nhanh nhẹn lắm xẽ giúp cụ xua con lợn vào chỗ cần bắt. Nó chỉ đuổi xùy xùy vài tiếng con lợn đã chạy vào cái góc chết ấy, bố tôi đơm được ngay ông nâng lái rọ lợn lên. Nhưng không ngờ cái rọ trông vậy để lâu cũng bị ải thế là đến réo một cái cái rọ rách bung con lợn kêu éc lên một tiếng rơi xuống chuồng lợn. Bố tôi hoảng quá run cầm cập nói: - Ấy chết nó mà kêu to dân quân đến thì gay, ông thừ người ra. Thằng em sau tôi nó chạy ra ngoài lấy cái bao tải trong đó đã bổ mấy vốc tro bếp vào trong đưa cho ông cụ xòe ra lại đón ở vị trí cũ nó lại tiết tục xùy xùy cho con lợn chạy vào hướng đó, đúng như dự đoán nó chẳng có con đường nào khác lại chạy vào và chui tọt trong cái bao tải đầy tro bếp và nó bị sặc ngay tro bếp nên chẳng kêu được một tiếng. Thế là bố tôi phải dìm nó trong vại nước chết hẳn mới đưa ra cắt tiết.
(Chuyện bóp mũi lợn là vậy nghĩa là làm sao cho nó tịt không kêu được). Sau này tôi tìm hiểu trong giai đoạn đó dân quanh vùng tôi để cải thiện phục vụ cưới, giỗ , tết người ta đêu phải nấu rượu lậu và bóp mũi lợn như vậy và năm đó nhà tôi đã vi phạm luật sát sinh thịt trộm con lợn còi ăn một cái tết tươm tất vui vẻ. Và cũng chỉ lúc đó anh em chúng tôi mới được ăn những miếng thịt lợn ngon chưa từng thấy vì cả năm nay có mấy khi được ăn thịt lợn đâu, Thường những bữa ăn ở quê tôi chỉ có mấy món đặc sản là tương và cà, rau muống luộc thời đó quê tôi người ta thường ngâm nga: “ Thiên lý ngô khoai thiên lý sắn,/ Tứ thời rau muống tứ thời tương”…Vì quê tôi ngô, khoai sắn là những sản vật đặc trưng nó đã giúp quê tôi chống lại cái đói tiềm năng thường trực. (A. Sơn và a.Năng thăm đền bà Lê Chân. A. Thạch Lạn)
Còn quanh năm chỉ có tương và cà muối mà thôi. Giai đoạn đó đồng ruộng quê tôi nhiều tôm và cá, cua, mắm tép là cơ bản, là chủ đạo, cá cua ăn thường xuyên vì cũng dễ kiếm toàn của tự nhiên các bà các mẹ các chị đi làm đồng về thể nào cũng có không cua thì ốc kiểu gì cũng có. Ngay bọn trẻ chúng tôi đi học về không có cái gì ăn lại mang cái dậm ra các con mương, thùng đào thùng đấu khua một lúc thê nào cũng có một mớ cá vụn về nâu canh dưa, hoặc đi móc mấy chú cua về nấu canh với rau tập tàng ngon tuyệt…Bây giờ không còn cái cảnh đó nữa Đồng chiêm quê tôi giờ đã cạn khô. Không còn cảnh lụt lội đồng nước trắng phau mênh mông nữa. Ngày xưa do lụt lội như vậy nên cá cua sinh vật thủy sinh rất đa dạng và phong phú nhiều vô kể. Khi nước rút cả một vùng đồng ruộng của 4 xã Thanh Sơn , Thi Sơn, Liên Sơn, Châu Sơn… đều dồn về cái rốn nước làng Lạt Sơn đã bổ xung cho sông Ngân làng tôi dồi dào lượng thủy sinh tôm cá cua ốc lươn trạch ba ba vô cùng đậm đặc chính vì có hiện tượng đó từ bao đời nay làng tôi mới có ngày hội hôi sông (bắt cá trên dòng Ngân giang) kể từ khi hoàn thành việc trị thủy sông Đà thành công và các cuộc cách mạng thủy nông ngày càng tiến bộ nạn đồng trắng nước trong không còn, và việc sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu, kèm theo việc sông Ngân bị lấp bị cắt khúc thì tôm cá và tép riu làng tôi đã đến hồi cạn kiệt…Sông Ngân đang thoi thóp thở trong những cơn bão bệnh của quá trình biến động môi trường ra. Hình ảnh sông Ngân trở thành gạch nối của quá khứ và hiện tại mà thôi. Từ đó tôi càng thấm thía cái giá của đổi mới đã chứa một nội hàm với tỷ số 50/50 vô giá về việc được cái nọ mất cái kia. Xong một thực tế không thể chối cãi đó là thông qua việc đổi mới đã làm thay đổi hẳn nhận thức của bao người dân quê tôi, đã lột xác bao cuộc đời trong cõi thực hôm nay. Đầu tháng chạp vừa qua tôi về quê dự đám cưới cháu họ gặp các cụ già làng các cụ túm lại hỏi han đủ chuyện thật cảm động trước những tấm lòng của những người chân quê mộc mạc thủy chung như đất:
-Bác xa quê lâu rồi không biết chứ ai ngờ có ngày hôm nay làng mình lên phố, cảm ơn nhà nước đã quan tâm, Chứ xưa khổ lắm làm gì được ăn uống cỗ bàn tiệc tùng như “cao lâu” thế này (Chẳng biết từ bao giờ người dân quê tôi dùng từ “Cao Lâu” để chỉ một bữa chén thịnh soạn nguồn gốc thế nào tôi chưa hỏi rõ nhung chắc rằng nó là một âm tiết của tiếng Pháp bôi mà ra)…Tôi nghe những lời đó mà càng thấy những giá trị của công cuộc đổi mới đang thấm dần vào những phiến đá nguyên sơ ở làng tôi để càng ngày nó càng phát lộ tỏa rạng hào quang. Tôi định trao đổi với các cụ nhiều điều như vấn đề môi trường, về giáo dục.v.v.. xong lại thôi vì hãy để các cụ vui và thấm thấu dần những giá trị thực của công cuộc đổi mới hôm nay.
Những chuyện ấy còn dài lắm… Trở về với những cảm xúc hoài niệm tuổi ấu thơ khi mà tôi với các bạn quê thường tắm mát ngụp lặn trong dòng sông Ngân cùng những con sâm cầm và cả những con trâu mộng sừng như cánh nỏ to kềnh càng ăn no cỏ và lá cây trên sừơn núi tất cả đều ùa xuống tận hưởng dòng nước tươi mát ngọt ngào (người và trâu cùng tắm) từng đàn cá mương lao tới rỉa những chú rận trên mình những con trâu như nhũng mũi tên lao trong dòng nước trong leo lẻo. Tắm sông giữa trưa hè là cái thú vui truyền thống của bọn trẻ chăn trâu chúng tôi sau khi leo trèo nghịch ngợm trên sườn núi gần trưa cả bọn ào xuống trần truồng ngụp lặn trong dòng sông thật không có cái gì thú bằng. Lúc đó tôi chưa có tư duy về cảm nhận rung động trước sự kỳ vĩ của địa hình quê tôi nên không để ý quan sát kỹ càng về những dãy núi cùng các hang động, và dòng Ngân Giang. Chỉ khi rời làng đi xa mỗi lần trở về thăm quê gặp lại sông Ngân tôi như gặp lại cả tuổi thơ mình. Những bạn cũ hiện nay đang lang thang khắp nơi thi thoảng mới gặp lại một vài người. Còn con sông Ngân vẫn thủy chung tồn tại chờ đợi chúng tôi trở về. Dòng sông đã gắn bó với tôi cùng bao kỷ niệm về một thời cắp sách, một thời chăn trâu đuổi vạc, te tái lội đồng đuổi vịt trong những chiều đông lạnh xám như chì. Tôi chỉ biết rằng khi tôi lớn lên đã có dòng sông rồi, nhớ ngày năm sáu tuổi bố tôi cho ôm cây chuối tập bơi để biết bơi người ta bảo với tôi phải cho chuồn chuồn ngô cắn rốn thì mới biết bơi, tôi cũng đã cho chuồn chuồn căn rốn có dễ đến hàng chục lần, Ở quê tôi tất cả các trẻ em đến 6 tuổi đều phải học bơi, biết điều khiển trâu ,bò, biết đẩy thuyền bằng sào trên sông Ngân. Dòng Ngân Giang quê tổi hiền hòa như bà mẹ hiền trút những dòng sữa tinh khiết cho cỏ cây ruộng đồng quê hương tôi qua các vụ chiêm mùa để lúa ngô xanh tốt, thóc mẩy, đậu sai. Sông Ngân quê tôi không dài, không rộng trường thiên như các dòng sông có tên tuổi trên bản đồ châu thổ, mà tôi đã được biết đến trong các bài giảng từ ngày cắp sách đến trường. Tuy vậy nó có một vai trò vô cùng quan trọng hình thành nên bản sắc văn hóa đặc trưng cho vùng đất Lạt Sơn xưa. Sông Ngân nhận nước từ sông Đáy, từ cầu Đồng Sơn thuở xa xưa nó chỉ là một con ngòi nhỏ, qua quá trình khai phá đất đai cải tạo ruộng đồng mà hình thành nê hai chi lưu Sông Ngân. Nó tuy ngắn với chiều dài khiêm tốn quanh co hơn 10km nhưng đã mang đậm hồn cốt của một dòng chảy bồi bổ tạo nên sinh khí hoành tráng cho vùng đất này. Đi sâu vào tìm hiểu một cách nghiêm túc, khoa học về quá trình hình thành sông Ngân, Chúng ta thấy sông Ngân bị chi phối bởi dãy núi dài 99 ngọn tạo ra cho sông Ngân, một lưu vực rộng lớn đảm bảo cho sông Ngân không bao giờ cạn…
Do độ chênh đáng kể của đường đồng mức trong mặt bằng địa chất vùng đất Tam giác sông Ngân phía Tây sông Đáy kể từ núi Cấm Thi Sơn theo đường thông cù ven bờ Tây sông Đáy đến cống Bùi cuối làng Thịnh Châu, xã Châu Sơn, cũ và một cạnh của tam giác kể từ cống Bùi men theo Gióng núi đến chân núi Đồng mạ thôn Lạt Sơn, xã Thanh Sơn, và cạnh Tam giác tiếp theo men theo Gióng Núi kể từ núi Đồng Mạ đến núi cấm Thi Sơn, Huyện Kim Bảng, Cả một khu đồng bằng rộng lớn nuôi sống người dân các xã Thi Sơn, Thanh Sơn, Châu Sơn, và một phần xã Liên Sơn, gồm các thôn Bút Phong, Do lễ. Trong vùng đất của tổng Quyển Sơn xưa(gồm các xã kể trên) thì điểm trũng nhất là làng Lạt Sơn.
Có thể coi khu vực ruộng đồng của làng Lạt Sơn xưa kia như một cái chảo nước hàng năm vào mùa mưa bão nước trên núi tràn xuống các chân ruộng cao tràn về ôm lấy chân núi Đồng Mạ, nhấn chìm ruộng đồng làng Lạt Sơn trong biển nước mênh mông. Thủy phá thổ đó là quy luật và sông Ngân được hình thành trong bối cảnh tức nước vỡ bờ là như vậy.
Khi mùa tháng tám mưa gió tràn về sông Ngân gồng mình lên chịu đựng những áp lực của mây gió tự nhiên đôi lúc mang đặc tính của một cụ già khó tính lạnh lùng kiêu kỳ ẩn chứa bao điều kỳ bí kiến tạo nên những phong cách riêng của dòng sông với những mạch ngầm từ những khe núi tuôn chảy dòng nước trong vắt xanh lóng lánh nhìn thấu tận đáy, với những đàn cá Trắm, Chép từ các thạch động ngầm kéo ra đỏ đuôi, xưa kia sông Ngân được coi như quê hương của ba ba, của cá lù đù , cá Trối… Mùa nước dâng trào mênh mông ôm gọn chân núi những mỏm đá nhô ra nửa chìm nửa nổi trông như những con quái vật khổng lồ. Sông Ngân, như đã trình bày ở phần trên nó nhận nước từ sông Đáy theo con rạch phía sau núi Cấm chảy qua Cầu Đồng Sơn tạo thành dòng chảy lộ thiên qua thôn Bút Phong, Bút Sơn, vào đất Làng Lạt Sơn. Hòa chung dòng nước vào các ao hồ trong làng tiếp tục chảy men theo Gióng Núi hòa vào sông Đáy qua cửa cống Bùi giáp gianh giữa phần đất cuối cùng của thôn Thịnh Châu xã Châu Sơn cũ của huyện Kim Bảng và bên kia là Thôn La mát Huyện Thanh Liêm, Hà Nam. ( Dòng chảy này ngoài yếu tố tự nhiên là cơ bản trải qua nhiều thời kỳ làm thủy nông nó được khơi thông nắn chỉnh tạo thành dòng chảy của sông Ngân)
Ngoài ra dòng sông Ngân lộ thiên mà tôi đã trình bày ở trên. Còn có một dòng sông nữa một phần chảy ngầm trong lòng dãy nui đá vôi dãy 99 ngọn. Từ xa xưa vào mùa nước người ta đa thả những quả bưởi ở cửa hang Luồn gần khu vực cầu Đồng Sơn thuộc xã Liên Sơn , huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam từ cửa hang đó đến cửa hang tối làng Lạt Sơn dài quanh co theo đường bộ khoảngtrên dưới 6km vài ngày sau người ta thấy những quả bưởi đó xuất hiện ở cửa hang tối làng Lạt Sơn. Sông Ngân có một đặc điểm kỳ lạ nữa, đó la tuy nhận nước từ sông Đáy sau núi Cấm Thi Sơn qua cầu Đồng Sơn sau đó lại hòa vào sông Đáy Chỉ có điều Sông Ngân chảy đến địa phận làng Lạt Sơn lại phân lưu thành hai nhánh. Một nhánh đổ ra cửa Cống Bùi cuối làng Thịnh Chân Xã Châu Sơn Huyện Kim Bảng Cũ và tiểu khu La Mát Kiện Khê huyện Thanh Liêm(đó lànhánh lộ thiên tôi đã trình bày ở phần trên . Còn một nhánh xưa chảy men theo trước cửa chùa ở đầu làngLạt Sơn nhập vào dòng sông Ngân thứ 2 đó là dòng sông Ngân cổ sau làng Lạt Sơn từ hệ thống ao hồ trước làng Lạt Sơn nước từ nhánh sông Ngân Lộ thiên hòa vào nhánh Sông Ngân bán Lộ thiên sau làng qua Ngòi Lải, và ngược lại. Những năm 60, 70 của thế kỷ trước, nhà tôi ở gần cống Sói của ngói Lải là con ngòi cắt ngang làng Lạt Sơn chia làng Lạt Sơn thành hai xóm mà xưa ngừa ta vẫn gọi là Xóm trên và Xóm dưới Cống Sói nối liền hai xóm, tại sao gọi là công Sói vì xưa mùa nước ngâp tháng 8 mùa bão mùa mưa nước chảy rất xiết mùa cạn lại trơ tận đáy lội bộ nước chỉ ngang ống chân. Dọc Hai bên ngòi các cụ làng tôi xưa xây những bức tường đá sứng sững như những tòa thành cổ mùa tháng tám chúng tôi ngồi trên tường thành thả cần câu cá.Những năm 60 của thế kỷ trước thuyền đinh trọng tải hàng ngàn tần vào mùa nước đã về tận ngòi Lải quê tôi thu thuế nông nghiệp bằng thóc. Ngày nay Cống Sói, ngòi nước thông từ sông Ngân và các ao hồ, đầm phía trước làng vào sông Ngân phía sau lưng làng đã bị lấp. Nhà anh Trai tôi nằm trọn trước cửa cống Sói. Như vậy sông Ngân được hình thành bởi hai dòng chảy trong đó có dòng chảy ngầm trong lòng những ngọn núi đá vôi. Dòng chảy từ cống Sói theo con ngòi giữa làng chảy vào dòng Sông Ngân sau làng. Đó dòng sông Ngân chính cổ xưa vì nó có một dòng chảy ngầm trong núi với chiều dài khoảng năm , sáu ki lô mét, nó bắt nguồn từ Đồng Sơn Xã Liên Sơn chảy ra cửa hang Tối chính là điểm cuối của dòng chảy ngầm của dòng Ngân giang, cung cấp nước cho dòng sông Ngân cổ chảy quanh co men theo chân các ngọn núi trong dẫy núi 99 ngọn thuộc địa phận làng Lạt Sơn. Qua trước cửa đền bà Lê Chân, tiếp tục chảy qua vực xuống đồng Gừng, chảy qua làng Hạnh Lâm hòa vào sông Đáy tại cửa Khâu xã Thanh Thủy huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Thuở nhỏ tôi được cha tôi kể lại. Sau làng tôi có những bãi đất rộng đến mấy trăm héc ta người ta vẫn cấy lúa gieo mạ như bãi Đường cây Si, Bãi Phủ, bãi Đường Con Chó,bãi Nềm Nhà…khu đất cao hơn một chút là nơi để lăng mộ hài cốt của những người quá cố, chỗ thấp hơn thường được cấy loại lúa cứng cây thân dài giỏi ngoi nước Hiện nay những bãi đất sau làng người ta vẫn còn. Mặc dù cũng có một vài khu vực bị san lấp để làm nhà như khu nghĩa địa Nềm Nhà cuối làng.vv.. Hiện nay người dân trong vùng ít đưa người quá cố chôn cất ở khu vực ấy, ở đó chỉ còn lại những lăng mộ cũ mà thôi. Có một chi tiết về Bãi Phủ tại sao gọi là Bãi Phủ Cha tôi kể lại rằng Bãi đất đó là nơi chôn cất một bà Chúa nên dân làng tôi gọi là Bãi Phủ có lẽ nơi ấy là khu nghĩa địa chỉ dành cho những gia tộc quyền quý trong vùng chôn cất thân nhân của mình, ngày xưa theo các cụ kể lại trong một cuộc khai quật người ta đã đào thấy một quan tài cổ bật ra có một xác người còn nguyên lụa là gấm vóc. Họ đồn rằng đó là một thiếu nữ quyền qúi. Xưa kia về mùa tháng 8 nước về ngập băng tất cả nhuwgx gò đống bãi nổi nước dân mênh mông những ngôi mộ bị nhấn chìm trong nước làng tôi là một làng điển hình cho hiện tượng “Sống ngâm da, chết ngâm xương” là vậy. nó cũng là một đặc trưng cho người dân vùng đồng chiêm trũng của tỉnh Hà Nam xưa. Lúc đó dòng Sông Ngân sau làng có một lưu vực rộng. Nếu tính từ chân những rặng tre như thành lũy sau làng đến chân Núi Đồng Mạ phải có chiều dài trên dưới 1000 mét, Nên từ làng người ta chèo thuyền đến thẳng bến đền Bà Lê Chân rất thuận tiện. Có lẽ từ đặc điểm ấy việc vận chuyển đi lại của người dân làng tôi nhà nào cũng có một chiếc thuyền nan không to thì bé…
Còn Xưa nếu đi bộ phải vượt qua Quèn Ba Bước, hay men theo gióng núi vào đến đền Bà lê Chân cũng mất khoảng gần 3km. Sông Ngân đẹp nhất là khúc từ Bồ Vô vào đến đồng Gừng cách đền bà Lê Chân khoảng hơn 1000m về phía hạ lưu. Sông Ngân kiêu sa hùng vỹ vào mùa mưa lũ nước dâng mênh mang cùng với những ngọn núi đá vôi hai bên bờ sông sừng sững vách núi dựng đứng như những bức trường thành. Hai bên sườn núi từng đàn trâu bò bình yên gặm cỏ cùng những chú dê đứng trên những mỏm đá nhấm từng chiếc lá lấp lánh trong ánh chiều đang từ từ xuống núi đâu đây vọng lại tiếng chim khắc khoải về chiều. Dưới sông nước trong văn vắt nhìn thấu đáy với những cụm rong tóc tiên dài đến hai mét trắng phau như ngó cần. Thuở nhỏ bọn trẻ chăn trâu chúng tôi đã cỡi trâu từ làng vào rừng trên dòng Sông Ngân, Trâu bơi rất giỏi chúng tôi bồng bềnh trên lưng trâu thỉnh thoảng con trâu lại vục đầu xuống nước sau lại vươn đầu lên thở phì phì nói chung nếu cỡi trâu kiểu đó chúng tôi đều chấp nhận ướt hết quần áo. Nhưng không sao sau sẽ lại khô: “ Quê hương như chốn thần tiên,/Dưới sông thả lưới trên quèn thả dê” Cùng nằm trong hệ thống của dãy núi đá vôi Hà Nam Ninh Bình dòng sông ngầm cung cấp nước cho Sông Ngân quê tôi cũng tương tự như những dòng sông len lỏi qua những thạch động Tràng An vậy. Ngày nay Hang Tối cửa sông ngầm cung cấp nước cho sông Ngân xưa đang dần dần bị lấp vì nhà máy xi măng Bút Sơn khai thác đá đã lấp dần dòng sông và cửa hang Tối, cùng với một số dự án về du lịch sinh thái đá làm biến dạng dòng sông. Đường bà Lê Chân từ thành phố Phủ Lý chạy thẳng vào khu công nghiệp vật liệu xây dựng và nhà máy xi măng Bút Sơn đã mở đường lấp cắt ngang Sông Ngân đoạn chảy qua trước cửa đền bà Lê Chân. Dòng sông Ngân đã biến dạng nó đang dần dần bị xóa sổ. Hiện nay người ta chỉ còn mường tượng ra nó vào dịp rằm tháng 7 hàng năm vào mùa lễ hội đền bà Lê Chân mà thôi. Cùng với việc tổ chức tế lễ, rước kiệu, hầu bóng ca trù rất thiêng liêng đình đám, người ta còn tổ chức các hoạt động văn hóa thể thao vui chơi giải trí như đua thuyền thi đấu bóng chuyền … Tôi cố gắng thực hiện công việc của một người công dân của làng Lạt Sơn cố gắng lưu giữ lại những giá trị phi vật thể đã tồn tại từ ngàn đời nay về dòng Ngân giang nơi đón những dòng lạc thủy để tạo nên diện mạo cơ bản của Làng Lạt Sơn Xin được mượn những câu thơ sau đây để kết thúc bài viết này nó như một dấu ấn lưu giữ trên tấm bản đồ cổ làng Lạt Sơn.
Nỗi nhớ
Ơi Lạt Sơn, Hỡi Lạt Sơn
Nao nao nỗi nhớ, mây vờn Bồ Vô.
Sông Ngân đâu bến, đâu bờ
Ai neo câu chữ, ai thờ thánh nhân.
Hà
PHỤC LẠI QUANG
1.NÚI ĐỒNG MẠ
Phục Lại Quang
Chuyện đã lùi vào dĩ vãng xa xăm lâu và lâu lắm rồi… Lâu như thể ngọn núi Đồng Mạ cái “Ấn ngọc” của nhà trời trong một cơn thịnh lộ, Ngọc Hoàng đã nổi máu xung Thiên cầm chiếc ấn quý báu đó vung tay ném thẳng vào mặt cháu của mình là Nhị Lang Thần vì tội không hoàn thành việc trị thủy sông Cái ( Sông Hồng ngày nay ) để thủy quái làm mưa làm gió quấy nhiễu trần gian, thao túng cho bọn a dua nịnh thần sách nhiễu chúng sinh, vơ vét bạc vàng, gây ra bao thảm cảnh, cùng với việc thiếu hiểu biết, do âm mưu của lũ tà ma ngoại tôc và lũ hàng xóm xấu bụng, đã lợi dụng tâm lý, đánh vào lòng tham thấp hèn, thiếu suy nghĩ, thiếu hiểu biết chỉ vì một chút lợi lộc nhỏ nhoi mà họ đã tàn phá thiên nhiên một cách dã man không thương tiếc như: tuốt lá điều , nuôi đỉa kinh doanh, bẻ măng non, mua sừng trâu giá cao, bắt đồi mồi lấy mai làm mỹ nghệ, lại còn nuôi gấu hút mật gấu, nấu cao hổ, buôn sừng tê ngưu gây ra bao thảm cảnh, tàn sát cỏ cây sinh linh hoang dã rừng sâu kiệt quệ, muông thú bị diệt chủng. Nguồn nước bị ô nhiễm vì nạn này nạn khác từ khu chế xuất thải ra, vàng tặc đào khoét trong rừng sâu gây nên… đơn từ tới tấp bay như bươm bướm về Thiên Đình, vụ nọ chồng lên vụ kia… Trong khi đó các Lạc Hầu , Lạc Tướng bỏ bê chính sự nhuốm bệnh công thần tự tung tự tác trần gian điêu đứng vì những vụ thảm án…sử bất minh, bắt nhầm đối tượng, ép cung, dựng hồ sơ giả trắng đen lẫn lộn… Toàn trò bịp bợm, sử dụng thảo khấu giang hồ tổ chức cưỡng đoạt miếng cơm manh áo của dân lành. Trăm voi đổ một đầu tằm cuối cùng chỉ có thường dân là phải gánh chịu mọi hậu quả. Giặc giã nổi lên như ong. Các Lạc Hầu, quan nha, tù trưởng… chỉ lo chăm chăm vun vén vơ vét, tranh giành đất đai, thổ nọ lầu kia, biệt thự, tư gia…đua nhau mọc lên như nấm. Còn các Lạc tướng mũ cao áo dài, xe xịn mấy chấm chính hiệu, đi mây về gió nghênh ngang oai vệ, đeo râu, nhuộm tóc, phong độ oai hùm. Nhưng khi bàn đến việc bảo vệ cương thổ thì các ngài đều có muôn vàn lý do để né tránh rằng: Việc đó không phải thuộc phần mình… Thực ra đại đa số các tướng, các đô… lúc đó đều thuộc diện trong tiêu chuẩn đặc biệt đó là: (Thuộc dòng hậu Duệ, có quan hệ thuộc hàng kiêu binh và họ đều là kẻ có tiền, chứ trí tuệ thì còn xem đã). Họ chỉ giỏi mánh khóe, thủ đoạn vơ vét kiếm tiền. Tiền của họ “nhiều như quân Nguyên”, giầu ngang với “Hòa đại nhân Triều Thanh ở bên Tầu” có vị tài sản nhiều đến mức mấy xe tải tứ mã chở không hết. Họ ngang nhiên tồn tại, thao túng xã hội. Còn đám dân đen suốt ngày chạy đôn chạy đáo, cởi trần đóng khố cuốc đất lật cỏ, phá đá làm đường, đào than thổ phỉ, lặn mò ngọc trai… Để làm giầu cho bọn chúng. Trong khi đó bọn chủ đất, chủ xưởng cấu kết với một số ty chức, Lạc Hầu giở thủ đoạn ăn bớt, ăn xén tiêu chuẩn phòng hưu của dân, về nghỉ không có quỹ duy dưỡng, còn đi làm công việc gì nặng nhọc, khó làm nhất thì đám dân đen lại được mời đến, được ưu tiên chiếu cố cái phần khó nhai cho mà hưởng, thôi thì đành phải vậy. Thân phận hèn thấp chẳng vịn dựa được vào đâu…tiền bạc không có, không dây mơ chẳng rễ má, ô chẳng có dù thì không, làm sao đứng trong hàng quan hệ được… Đã đứng trong tầng đáy của giai tầng xã hội rồi, thôi đành cam phận lặn lội trong cõi lầm than, lam lũ đầu tắt mắt tối…”Bán mặt cho đất , bán lưng cho trời”, bòn gio đãi trấu đặng kiếm miếng cơm manh áo. Đó là cái nghiệp của tổ tiên những bần cố nông để lại nên cố mà theo. Một năm loay hoay mấy vụ chiêm, mùa cần mẫn gieo trồng hai sương một nắng đầu tắt mặt tối, mà nào có khấm khá, bao tai ương rủi ro cứ thường xuyên rình rập, đương đầu với kẻ thù hai chân và bốn chân lúc nào cũng lăm le định cướp miếng cơm manh áo của dân lành. Cùng với sự lộng hành của thần mây, thần gió, thần sông, thần biển gây ra bão lụt mưa xa, ngập nhà tận nóc, trôi sạch trâu bò lợn gà hoa màu hiến dâng cho vua thủy tề. Thế là quanh năm đầu tắt mặt tối, chỉ một trận trời cuồng là dân đen trắng tay lại hoàn trắng tay.
Có vùng cả làng cả xã kéo nhau đi ăn mày, nỗi bi đát trần ai trời xanh nào thấu… Vụ nào trời rủ lòng thương, không động tình “en no en niếc” gì cho bình yên một chút, để thuận lợi gieo trồng nông phu khấp khởi mừng thầm. Nhưng đâu có ngờ: “ Trời không hại mà người lại hại”. Muốn lúa tốt, ngô to bắp, đậu sai quả… thì phải bón phân, “Nhất nước nhì phân” mà. Nhưng mà thuốc giả, phân giả, giả tràn lan, toàn bột đá và gạch nghiền trộn lẫn bón cho hoa màu cứ quắt queo tàn lụi, thế là thất bát hoàn thất bát. Trong khi đó những kẻ tà ma vẫn nhởn nhơ béo tốt cười đùa trên sự bần cùng đói nghèo thống khổ của đám dân đen…Các cụ đã dậy rằng: “Họa vô đơn trí phúc bất trùng lai” Môi trường bị ô nhiễm vì khói bụi nước thải, thuốc giả… Hóa chất kích thích, bón lên cây trồng vật nuôi, sau đó thu hoạch chế biến ăn vào gây ra muôn vàn loại bệnh, tẩu hỏa nhập ma, tiểu đường, loạn nhịp tim mạch, ung thư , máu trắng toàn những bệnh tật hiểm nghèo, không phương cứu chữa… Ấy là chưa kể đến hậu quả của chiến tranh, giặc giã xâm lăng từ xa kéo đến, hàng xóm xấu bụng tràn sang xảy một đời người hứng chịu mấy cuộc binh biến chiến tranh. Giặc xa, giặc gần chúng đua nhau: đốt nhà, phá cửa, chúng cướp bóc tàn sát, giết phu, hiếp phụ…Chúng còn mang sấm sét đến tàn phá vùng này…máu chảy thành sông, xương chìm đáy bể… đất đá phố phường, làng mạc, núi rừng bị bọn giặc dùng thiên lôi, địa lôi cho nổ tung đất đá lật lên, lật xuống, ngoài biển giăng ngư lôi pháo hạm gầm gừ gào thét, chúng cướp đảo, gạn ao như vào chốn không người. Chúng cố tình, quyết ra tay hủy diệt, hạ độc, chúng đã đằng vân giá vũ phun khói diệt quang thiêu trụi cây cỏ côn trùng, đất cằn nay trở thành hoang mạc. nguồn nước bị ô nhiễm, đất đai trộn chất giết người, ngay cả côn trùng cũng bị hoại diệt Những người lính, người dân ở trong vùng đó hay phải đi qua vùng ấy xẽ bị phơi nhiễm hậu quả khi sinh nở thường sinh ra quái thai, nòi giống Lạc Hồng đang đứng trước những thảm họa xuy vong…
Hậu quả của các cuộc chiến tranh xảy ra còn để lại những dư chấn tàn khốc… Trải qua bao cuộc binh đao…mấy kỳ hội nghị, có bao kế sách đã được các bộ não (Do Thái) nghiên cứu đệ trình lên, cùng bao kiến nghị của các cận thần cố vấn gửi tới xong vẫn không có chuyển biến gì. Vì các Lạc Hầu, Lạc Tướng đã mắc phải một chúng bệnh trầm kha, bệnh ủ đã quá lâu, nay đang chuyển sang giai đoạn di căn lâm sàng nhập vào thâm căn cố đế , nó đang trong giai đoạn phát tán lây lan như dịch hạch. Tuy nó không giống các căn bệnh hiểm nghèo đang hoành hoành trong cõi nhân gian như: Si Đa, Ê bô la, hay H5N1. Bệnh này nó làm tê liệt bộ máy quản lý, làm cho hoạt động kinh tế chính trị xã hội ngưng trệ chẳng khác nào bùa mê thuốc lú, đó là Hội chứng Cơ Chế. Khi xuất hiện những vấn đề gì liên quan đến sụ trì trệ trong việc nhà quan… là các lang băm nhà ta đều hùng hồn mà phán rằng đó là bệnh Cơ chế…
Ngọc Hoàng nghe Nhị Lang thần một hậu duệ tin cẩn của mình trong dòng đặc biệt (hậu duệ, quan hệ, tiền tệ)báo cáo thuyết trình bản tổng kết dài hơn 300 trang, toàn những lời lẽ ngụy biện đã làm ngài nổi máu xung thiên không còn bình tĩnh để giữ thể diện trước quần thân. Ngài đã với tay nắm chiếc ấn ngọc, nhằm thẳng mặt Nhị Lang Thần mà ném với sức mạnh của vị thần tối cao thượng, thượng đẳng thần tiên Hoàng Đế nhà trời đã truyền vào ấn ngọc bằng công lực tu luyện mấy chục vạn năm siêu sao thâm hậu ào ào xé gió lao tới. Nhị lang thần là một đấng thần tiên tinh thông nghìn ban binh pháp đã sử dụng ngón khinh công di ảnh thi triển nhẹ nhàng tránh được cú ném của Ngọc Hoàng. Chỉ thương cho chiếc ấn Ngọc đã được Ngọc Hoàng ném đi vun vút chỉ trong chớp mắt đã vọt ra khỏi cửa Nam Thiên Môn nhập vào cõi vô vi. Một ngày kia lạc tới cõi phàm trần bùng cháy phát tán trong tầng khí điện đạm của vùng Âu Lạc, rồi rơi xuống cánh đồng chiêm trũng của làng Lạt Sơn do bị quăng quật, va chạm với nhiều Thiên Thạch nhà Trời và lại bị thiêu cháy trong tầng đối lưu, chiếc ấn ngọc đã bị biến dạng sần sùi xấu xí, nhưng dù sao nó vẫn còn giữ được dáng dấp hình hài. Ngoài ra trong cuộc phiêu du trong cõi không không ấy Ấn ngọc bị va đập kéo theo muôn vàn thiên thạch cùng rơi xuống. Nó đã tạo thành những vòng cung núi non trùng điệp như ngày nay.
Lại nói về Ngọc Hoàng ném bay mất Ấn ngọc ngài thấy tiếc liền vận công thi triển thần thông, truy tìm lục căn độn giáp, dọi pha đèn thần tỏa vào ba cõi, soi đến cửu ngục tuyền đài, truy nguyên hồn cốt, vượt cả Kim Ô, Hỏa tinh, Ảo tinh…ngược về bến giác, gặp cõi vô vi, ngài nhận ra rằng khí số của chiếc ấn đã hết…( Trên cõi nhà trời Tiên linh, thần linh, địa linh, lưu linh, hoa linh , gió linh,…. tỷ tỷ loại linh thì không nói làm gì, còn tất cả các linh vật đồ dùng công cụ… nhà trời đều có hồn cốt, được phù phép, lập trình ,cài số ,mã hóa, yểm thần khí linh, nên đều có khí số như một thực thể sống). Khi chiếc ấn bị chính tay vua trời đầy xuống trần gian trong trường hợp như vậy và nó trở thành biểu tượng cho đất vùng Lạt Sơn từ trước cả thời ông Bành Tổ đến giờ.
Gần đây trong dân gian đang mắc thêm một căn bệnh lạ đó là bệnh xin dấu, Người ta đồn rằng nó là do nạn dịch Cơ Chế và công quyền con dấu gây ra mà người ta gọi là “ma dấu”. Đã gây ra bao phiền phức cho dân lành, hành hạ chúng sinh: Tỷ dụ như xin chứng nhận tư cách nhân thân(nghĩa là chỉ cần chứng nhận về con người đó ở đơn vị công tác hay tại nơi đang làm việc cũng như nơi đang sinh sống tư cách phẩm chất đạo đức của đối tượng ấy có trong sạch hay không…mà thôi, việc này có lẽ chỉ an ninh khu vực và tổ trưởng dân phố là nắm vững nhất nhưng họ không được xác nhận mà phải thông qua sở tư pháp) và cũng phải qua mấy cửa, mấy lần đi về sao in nhiều loại giấy, lệ phí để làm thủ tục xác nhận 200k, hẹn ngày lấy kết quả chẵn một tuần trăng thế thì còn có cơ hội cho người đi xin việc làm nữa không? đấy là đổi mới tư duy một cửa…Còn nếu dính dáng đến chuyện tiền nong là có cửa hành, cửa tỏi rồi, vay một chút tiền để sửa sang nhà phải qua chín tầng cửa hơn mười con dấu lại còn phải có thêm cái dấu vô hình hảo hảo có thân quen , có bảo lãnh thì may ra việc mới có thể thông đồng bén giọt được…Mỗi việc đi chạy giấy tờ lo con dấu mà xanh vàng mắt…
Đấy cứ bảo rằng người đời hay nói ngoa dụ. Thôi thì nó có số tưởng rằng hão huyền nhưng thực ra cứ nhìn lại mà chiêm nghiệm thấy cũng có phần đúng… (Chiều qua đang tự dưng nồi cơm điện không nhảy thế là bị khê trong bụng tôi cứ lo phấp phỏng tìm xem có chuyện gì xảy ra. Không ngờ đang hý hoáy viết bài trên máy: Tập Lẩu văn này hơn hai trăm trang rồi, chiều vừa đọc cho anh Mao nghe mấy đoạn đang thú loay hoay ken hình ảnh vào bài viết, chẳng biết thế nào, động nút nào mà xóa bay cả cuốn sách hơn 200 trang bản thảo. Tôi gọi con trai thứ hai vừa tốt nghiệp giáo viên dậy nghề bằng kỹ sư công nghệ thông tin xuống truy tìm khôi phục trang viết nhưng không sao tìm được. Tôi cứ tiếc ngẩn, tiếc ngơ mãi. Đấy không phải là cái số sao, không phải hư vô sao, cơm khê sui xẻo thế. Tôi trằn trọc cả đêm mất tiền bạc không tiếc bằng làm sao mà có thế tìm lại hồn văn như cũ. Và ngộ ra rằng vì dốt nên mới bị như vậy)…Ngọc Hoàng vì quá giận mất khôn mà ném ấn đi ngài cũng thấy tiếc, trầm ngâm suy nghĩ. Sau đó rút thước Lỗ Ban, tra bảng tuần hoàn, truy tìm hóa trị ẩn số của căn nguyên quy luật, dịch sang Phạn tự gặp trang Anan Đề, luận vào Kinh Dịch. Ngài bỗng vỗ trán ngộ thấy cõi trời sớm muộn gì cũng phải đổi mới, đây là một việc cam go đòi hỏi sự tỉnh táo trong sạch tĩnh lặng, cần có kế hoạch cụ thể từng phần, từng khâu. Ta cần cố gắng đánh giá cụ thể chính xác để có phương án sử lý nghiêm túc… điều chỉnh chính xác có cơ sở biện chứng nhằm lập lai kỷ cương ổn định cuộc sống cho muôn dân. Nếu không cẩn thận sử lý nhầm lẫn thế giới này xẽ lại bị rơi vào kỷ nguyên băng hà với không gian chiến tranh lạnh trên cõi người thì nguy hiểm lắm. Hiện thời đã có một số Tiểu vương quốc nhỏ bé nhưng ngang ngạnh cậy mình có “A tôm”* bảo bối khinh khí. Không sợ Trời Phật nghênh ngang giở trò hô gió gọi mưa, chống lại quy chế của Hội Đồng nhà Trời, nó chỉ chờ có thời cơ là giở trò quấy đảo như vụ giàn khoan 981 của bọn T Khựa thì gay go. Ngay cả mấy ông trong bộ tứ thường trực nhà trời tự mình nhận vai trò cai quản trần gian, cậy mình to béo dự trữ nhiều công lực gian manh dùng phép rút đất mấy nước nhỏ yếu thế phải cam chịu cảnh đàn tan nghé xẻ nồi da nấu thịt đất nước bị chia cắt thật bi thương, có kẻ cậy mạnh luyện rồng tạo rắn lắp vòi bạch tuộc tràn xuống ao người cắm chông cắm trà diễu võ dương oai giở trò thỏa khấu, cướp biển, cướp trời gây ra đại loạn thiên hạ, chính các vị là những kẻ đang thao túng làm nhiễm loạn thế giới này.
Cái Ấn ngọc (núi Đồng Mạ)nhập vào cõi trần gian phải chiụ đọa đầy đến nay đã trải qua hàng triệu triệu ngàn năm… trước cả thời có ông Bành Tổ giờ đây đã tỉnh giấc, đang bước vào giai đoạn hóa thân, trút bỏ lại trần gian những công lực tiếm tàng ngàn năm tu luyện qua các cuộc vận động thiên tạo nhằm bồi đắp xây dựng cho lưu vực đồng bằng sông Hồng nhiều công trình tạo ra một phần ấm no cho dân chúng, núi Đồng Mạ đang dần dần về trời…Quả núi đang mòn dần theo vòng quay của tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa. Lá số của Núi Đồng Mạ đang được triển khai trong cõi nhân gian… Tôi cứ miên man trong việc làm sao giữ lại , lưu lại được hình ảnh ngọn núi thiêng của làng tôi. Nó đang từ từ hóa về trời. ngẫm cho cùng đấy là quy luật và chẳng phải câu chuyện huyền tích về núi Đồng Mạ, về Làng Lạt Sơn đang được kể đó sao…?
Thạch Lạn- Lại Quang Phục.
Âm hưởng tiếng trống BẮC LÝ
Lại Quang Phục chủ tịch Hội Đồng tp. Phủ Lý tại Nam Định
Hội văn học nghệ thuật tỉnh Nam Định
Sáng nay Hội đồng hương tỉnh Hà Nam tại tp. Nam định đã Tổ chức vinh danh cho 704 học sinh giỏi các cấp từ tiểu học đến trung học phổ thông. Trong đó có 13 cháu học sinh giỏi cấp thành phố, cấp tỉnh , khu vực và cấp quốc gia so với năm 2013 số học sinh giỏi tăng hơn 20%. Trong đó có ba cháu học sinh đạt giải nhất kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia. Đó là niềm tự haò của bà con đồng hương tỉnh Hà Nam, nơi có tiếng trống Bắc Lý trường hai lần được tặng danh hiệu anh hùng lá cờ đầu trong phong trào học tập trong cả nước. Hội đồng hương tỉnh Hà Nam tại tp. Nam Định. Thành lập từ năm 1997, tính đến nay đang ở vào tuỗi xung mãn “ mười bảy bẻ gẫy sừng trâu”. Trên quê hương thứ hai của mình tiếp thu và thừa hưởng truyền thống khoa bảng của đất học Nam Định đã một phần kiến tạo sự hưng phấn trong học tập và tu dưỡng hình thành những nấc thang trí tuệ cho con cháu hội viên Hội đồng hương tỉnh Hà Nam Tại Nam Định. Năm 2014 :-Hội đồng hương huyện Lý Nhân quê hương của tiếng trống Bắc Lý có 197 cháu đạt danh hiệu học sinh giỏi.
-Huyện Bình Lục có 183 học sinh.
-Huyện Thanh Liêm có 159 học sinh.
-Huyện Kim Bảng có 66 học sinh.
-Thành phố Phủ Lý có 59 học sinh.
- Huyện Duy Tiên có 40 học sinh.
Hiện nay tổng số hội viên Hội đồng hương tỉnh Hà Nam tại Nam Định có hơn 1300 hội viên, hai huyện Bình Lục và Lý Nhân có số hội viên tương đương nhau đều xấp xỉ gần 400 hội viên trên đơn vị đồng hương huyện sau đó đến huyện Thanh Liêm, Duy Tiên, Kim Bảng và cuối cùng là Phủ Lý (vừa thành lập hội đồng hương tròn 2 tuổi). Như vậy trung bình cứ hai hội viên có một cháu học sinh giỏi đó là tín hiệu đáng mừng.
Tại ngày Hội vinh danh các cháu học sinh giỏi của Hội đồng hương tỉnh Hà Nam tại Nam Định năm nay được hân hạnh được đón tiếp ông Nguyễn Mạnh Bảo thường vụ chánh văn phòng Hội khuyến học tp. Nam Định về dự và tặng quà, động viên phong trào khuyến học của Hội Đồng hương, bà Nguyễn thị Ngân nguyên phó giám đốc sở giáo dục- đào tạo tỉnh Hà Nam Ninh cũ trưởng ban khuyến học Hội Đồng hương tỉnh báo caó tóm tắt thành tích học tập trong năm 2013-2014. Nêu bật tinh thần hiếu học, sự quan tâm của hội viên Hội đồng hương, sự chỉ đạo sát sao của ban chấp hành Hội đồng hương tỉnh trong việc động viên con cháu hội viên chăm chỉ học tập tu dưỡng rèn đức, luyện tài vượt khó vươn lên trở thành những học sinh giỏi những công dân gương mẫu trong tương lai. Qua đó giáo dục truyền thống yêu nước, yêu quê hương, không quên nguồn cội trong các cháu học sinh cũng như hội viên đó là trách nhiệm thường xuyên và liên tục của BCH Hội đồng hương cùng các gia đình hội viên đối với sự nghiệp trồng cây, trồng người, chăm lo vun trồng cho những thế hệ tương lai của đất nước. Ngày hội vinh danh diễn ra trong bầu không khí ấm áp tràn đầy tình nghĩa quê hương cả khán phòng nhà văn hóa trung tâm 3-2 tp. Nam Định đầy ăm ắp tiếng cười nói hoan hỉ của các cháu học sinh và các bậc phụ huynh, phút chia tay các bậc phụ huynh đều rưng rưng xúc động như muốn trẻ lại để được hưởng bầu không khí trẻ thơ tươi đẹp này. Tâm sự trăn trở của Nghệ sỹ nhân dân Lê Huệ nguyên phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam Ninh, hiện nay là Chủ tịch BCH Hội đồng tỉnh Hà Nam Tại Nam Định. - Các cháu học sinh hiện nay có thể có cháu thuộc thế hệ thứ tư, thứ năm, sinh ra trên đất Nam Định chúng ta phải có trách nhiệm hơn nữa trong việc chăm lo xây dựng tư cách nhân phẩm của các cháu trở thành những công dân ưu tú những chủ nhân tương lai của đát nước đồng thời cũng thường xuyên nhắc nhở các cháu hướng về nguồn cội của mình, quê hương Hà Nam yêu dấu.
KIM BẢNG QUÊ HƯƠNG TÔI
Tùy bút
Thời nhà Nguyễn phủ Lý Nhân gồm có các huyện: Duy tiên, Kim Bảng, Bình Lục, và Thanh Liêm, trực thuộc tỉnh Hà Nội. Đến đời vua Thành Thái( 1889 - 1907 ) tỉnh Hà Nam được thành lập. Ngược dòng thời gian vào khoảng giữa thế kỷ XV phủ Lý Nhân thuộc trấn Nam Sơn xưa có năm huyện lỵ là các huyện: Cổ Bảng, Cổ Giả, Cổ Lễ, Nam Xang và Thanh Liêm. Vì nhiều lý do vào khoảng năm 1446 nhà nước phong kiến Đại Việt (thời vua Lê Thánh Tông) đã đổi tên Cổ Bảng thành Kim Bảng, Cổ Giả thành Duy Tiên, Cổ Lễ thành Bình Lục, Thanh Liêm vẫn giữ nguyên tên cũ (có thể coi Thanh Liêm là huyện có tên cổ nhất không thay đổi trong tỉnh Hà Nam xưa và nay). Vậy tên gọi Kim Bảng có ý nghĩa gì? Vì sao lại đổi tên là Kim Bảng. Ở vấn đề này ta đều hiểu Kim có nghĩa là mới, kim cũng có nghĩa là Vàng, thứ kim loại quý hiếm, có màu vàng óng ánh chói lọi một màu sắc biểu trưng cho quyền lực đế vương. Còn bảng ở đây ta hiểu rằng ngoài ý nghĩa là tấm bảng đơn thuần mà người ta biểu thị trên đó những thông tin cần thiết bằng ngôn ngữ, ký hiệu hoặc hình ảnh. Còn ở đây với tên Kim Bảng có nghĩa là cái bảng mới,( cái bảng vàng ở trên đó ghi tên các sỹ tử đỗ đạt (đăng khoa) trong các kỳ thi do các triều đại phong kiến tự chủ Đại Việt xưa tổ chức, lựa chọn).Đó là sự khao khát đỗ đạt để tiến thân bằng con đường khoa bảng, (học vấn). Bắt đầu từ triều Lý thời vua Lý Nhân Tông(1072-1127) Nhà nước phong kiến tự chủ tiến hành mở khoa thi đầu tiên niên hiệu Thái Ninh năm 1075. Trải qua gần 900 năm cho đến khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn năm 1921, huyện Kim bảng có số lượng người đỗ từ trung khoa đến đại khoa không nhiều.( Kể từ khoa thi niên hiệu Thái Hòa thứ 11 năm 1453 đời vua Lê Thánh Tông cụ Hoàng Thuần Quê xã Lạc Tràng, Huyện Kim Bảng cũ đã đỗ Tam giáp đồng Tiến sỹ và người Kim Bảng đỗ khoa thi cuối cùng do triều Nguyễn tổ chức đó là cụ Phó bảng Bùi Kỷ.(Cả một khoảng thời gian dài như vậy chỉ có gần hai chục người đỗ trung khoa và đại khoa).Ở vào thời buổi nhiễu nhương đó cụ Bùi Kỷ không ra làm quan mà ở nhà dạy học, cụ quê xã Châu Cầu xưa thuộc đất Kim Bảng). Rõ ràng việc thay đổi tên huyện Kim Bảng đã có phần nào tác động đến tâm lý cũng như nhận thức của người dân vùng đất Cổ Bảng hoang sơ xưa, thay đổi nhân văn, nếp nghĩ, chú tâm vào việc rèn luyện đào taọ nhân tài mong muốn cho con cháu thông minh mẫn tiệp, cần cù ham học, có nhiều người đỗ đạt làm vẻ vang danh giá cho gia đình, dòng họ, cho quê hương. Phụng sự triều đình cũng như phụng sự dân tộc.
- Ở vào vùng đất có vị trí đặc biệt hiểm yếu nằm trên cạnh tam giác đều của đồng bằng Bắc Bộ, phía tây quốc lộ 1A, đoạn Đồng Văn- Cầu Khuốt có hai dòng sông chảy qua đó là: sông Đáy, sông Nhuệ lưng dựa vào dãy núi 99 ngọn huyền bí : xưa là vùng thâm sơn cùng cốc phía tây sông Đáy. Kim Bảng là một huyện nhỏ nhưng có địa giới giáp ranh với rất nhiều tỉnh như: Hà Đông cũ nay là Hà Nội ở phía Tây Bắc, xứ Mường tỉnh Hòa Bình ở phía Tây và giáp tỉnh Ninh Bình phía Tây Nam. Dãy thạch bích khổng lồ đã tạo nên cho Kim Bảng mang đậm diện mạo của một vùng bán sơn địa, nơi có dãy núi đá vôi kéo từ vòng cung Ngân Sơn trượt theo vết gãy Sông Đà, theo mạch Tản Viên Sơn đổ xuống theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, trập trùng đến tận Ninh Bình, Thanh Hóa rồi hòa nhập vào dãy Trường Sơn thành cột sống vững chắc tạo nên hình hài đất nước, cong cong chữ S. Phía tây Phủ Lý dãy núi dài chạy đến đầu làng Quyển Sơn thì dừng lại Bên kia núi Ngọc có chùa Bà Đanh bên này Núi Cấm như hai dấu chấm tạo nên bởi dòng kẻ Sông Đáy, đến đây núi không chạy theo sông Đáy nữa mà lùi lại tạo thành một vòng cung ôm gọn các xã Châu Sơn, Thanh Sơn, Thi Sơn và một phần xã Liên Sơn, hình thành những cánh đồng bát ngát màu mỡ cho đến tận La Mát, Kiện Khê huyện Thanh Liêm dãy núi dài lại chạy bám theo bờ Tây Đáy chạy tiếp cho đến tận Ninh Bình. Sự vận đông của thiên nhiên đã tạo tác nên hàng ngàn ngọn núi nhấp nhô với vô vàn khe suối và những thảm thực vật phong phú, cảnh sắc Kim Bảng đến cuối thế kỷ XIX vẫn còn hoang sơ, hấp dẫn bí hiểm và kỳ thú với nhiều hang động, và thế đất hiểm. đã từ lâu các nhà phong thủy đã xác định được những huyệt địa thần bí như: huyệt (Đế Vương) ở Ba Sao, huyệt (Rồng) ở Do Lễ, huyệt (Rùa) ở Khả Phong, huyệt (Xà) ở Tân Sơn, huyệt (Tượng) ở Lạt Sơn, Núi cánh Diều bên cạnh núi Đồng Mạ cuối đất làng Bút Sơn đầu làng Lạt Sơn tương truyền rằng thời Bắc thuộc cách nay hơn một ngàn năm Cao Biền đã cưỡi diều giấy và mắc vào núi nên nó có tên là núi cánh Diều thực hư ra sao những điều đó phải chăng chỉ là truyên thuyết. Chỉ biết rằng dãy thạch bích đó dài trùng điệp, tạo thành thế đất: “Biến có thể đánh, lui có thể giữ”. Chẳng vậy bà Lê Chân nữ tướng của Hai Bà Trưng đã dựa vào vùng đất này để chống quân Đông Hán gần hai ngàn năm trước. Thế kỷ thứ mười Lý Thường Kiệt cũng đã chọn nơi đây làm cơ sở luyện quân, giặc tan lại cho binh lính khai sơn phát triển nghề nông tang, mở hội thái bình. Gần đây để phục vụ cuộc kháng chiến cũng như kiến quốc người ta đã khoan vào lòng một số quả núi dài hàng nghìn mét làm kho dự trữ phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những cơ sở đó ngày nay vẫn còn. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường với tốc độ đô thị hóa hiện nay địa hình , địa mạo Kim Bảng đã có nhiều biến đổi. Tuy vậy tiềm năng của Kim Bảng vẫn chưa khai thác hết, núi rừng vẫn trùng điệp, nước sông Đáy vẫn mát lành. “Mai đây dự án Tác Giang – Phủ Lý thông thủy dòng phù xa sông Hồng theo dòng Châu Giang lượn bóng Đọi Sơn hòa vào sông Đáy, sông Nhuệ nơi thành phố Phủ Lý ngã ba sông, thủ phủ tỉnh Hà Nam”.Đất hoa làng Phù Vân ngày càng xanh tốt. Ở đó có dòng họ Lại, môt dòng họ tuy nhỏ nhưng đã có nhiều cống hiến trong công cuộc kháng chiến kiến quốc. Năm 1950 đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi, Trong thư Người đã viêt:”…Tôi mong rằng các dòng họ trong cả nước Việt Nam họ nào cũng như họ Lại ở Phù Vân thì ta không cần đánh mà giặc cũng phải lui…” ( Trích thư Hồ Chủ Tịch Gửi họ Lại xã Phù Vân đông xuân 1950). Ngược dòng thời gian vào đầu thế kỷ thứ mười Lý Thái Tổ trên đường thiên đô về Thăng Long Người đã dừng thuyền ngự ở ngã ba sông này. Mong rằng trong công cuộc trị thủy tỉnh Hà Nam xẽ sớm có thêm một mạch giao thông nối với sông Hồng, từ đây có thể xuống biển hay ngược lên thủ đô Hà Nội một cách thuận lợi và có giá trị kinh tế cao bằng vận tải thủy. Quốc lộ 21A mạch giao thông quan trọng của huyện Kim Bảng đoạn từ Phủ Lý đi Chi Nê - Hòa Bình,men theo sông Đáy qua Do Lễ, Khả Phong, Tam Trúc, nơi có: dốc Bòng Bong, dốc Ba Chồm, đi vào lịch sử, nơi trên sườn núi thời kháng chiến chống Mỹ đã khắc câu nói như một chân lýcủa Chủ tịch Hồ Chí Minh:
- “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP- TỰ DO” .
- Dấu ấn đó đã in đậm trong mỗi chúng ta không bao giờ phai mờ. Giờ đây đường 21A đã được nâng cấp mở rộng, các phương tiện giao thông bon bon, tấp nập ngược xuôi trên đường, trở thành cầu nối thuận tiện cho việc giao thương giữa vùng đồng bằng với vùng Tây Bắc. Mới đây khu công nghiệp xi măng Bút Sơn đã khánh thành đưa dây chuyền II với sản lượng 1,6 triệu/tấn năm đi vào hoạt động, từ xa ta nhìn thấy như một Hỏa Diệm Sơn đêm ngày nghi ngút nấu nung. Vùng hoang sơ thần tiên xưa đang gồng mình trong công cuộc thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa. (Đá hóa Đá đã tạo nên bao diện mạo mới với các công trình thế kỷ làm đổi thay đất nước). Trong cái nóng hầm hập của mùa hè, ngồi dưới chân núi Cấm tay nâng bát nước chè xanh Do Lễ sóng sánh như mật ong từng ngụm, từng ngụm mát lành như thấm vào tận gan , tận ruột. Vùng bán sơn dịa này còn rất nhiều sản vật của núi, của ruộng đồng: Ai qua Phủ Lý thường được nghe câu: “Trên dê dưới hến” nghe có vẻ hài xong rất thực với vùng đất này. Dân chài ngã ba sông thuộc xã Phù Vân xưa có nghề cào hến trên sông những con hến như cúc áo trắng như hạt cườm được bán đầy trong các sọt tại chợ Bầu, chợ Trấn. Trên các triền núi của các xã Thanh Sơn, Liên Sơn, Tân Sơn v.v. từng dê đàn trắng, vàng nhảy nhót tung tăng trên sườn núi hàng năm xuất cho các nhà hàng ở thủ đô và các tỉnh hàng trăm tấn những đặc sản này chỉ tập trung ở hai huyện Kim Bảng và Thanh Liêm. Vùng đất ẩn chứa nhiều trầm tích văn hóa và những sản vật đặc trưng xưa kia: “Hoang sơ như chốn thần tiên/ Dưới sông thả lưới trên quèn thả dê” (Cố Hương- thơ Đá Trắng), ngoài raKim Bảng có cá Trối Tam Trúc, cá Trắm Lạt Sơn toàn cá tự nhiên, Cây cỏ trên rừng có gỗ Xưa, có gỗ Kiêng( thứ gỗ dân gian gọi là gỗ Nghiến), xưa chuyên dùng làm răm đóng cối xay thóc, vải Ba Sao, Thụy Xuyên, mơ Do Lễ, và một đặc sản đã được nhà thơ Tản Đà đưa vào thơ ca như một giai thoại về mối tinh rau Sắng chùa Hương từ đầu thế kỷ trước. Vào mùa lễ hội chùa Hương tại bến Hồng Phú thuyền nan nhộn nhịp, tấp nập đưa khách lên bến Đục: “Muốn ăn rau Săng chùa Hương ,Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa…” Kim Bảng liền kề với khu du lịch tâm linh chùa Hương,cùng mang đậm đặc trưng một thảm thực vât, nên cây rau Sắng đã từ lâu trở thành một sản vật quý hiếm của địa phương, Người gửi rau cho Tản Đà từ bưu điện ga Phủ Lý xưa là vì lý do đó:
- “Ai đốt than quèn Cây Vải hôm nay
- Tháng ba này mùa rau Sắng
- Gánh nặng trên vai mẹ đi chợ Kiện
- Chợ cũ còn đây chân bước ngập ngừng”
- Hồn Đá (Thơ Đá Trắng)
- Nhà thơ, nhà nghiên cứu sưu tầm văn hóa Nguyễn Thế Vinh đã viết gần mười trang về rau sắng Hà Nam trong (Dấu ấn thiên đô). Trong đó có đoạn “…Cá Trối, đầu như cá quả, thịt chắc chuyên sống trong đầm cỏ ven hồ Tam Trúc, cá nướng than gỡ nạc, xương giã lọc nước thả chùm nụ rau Sắng dân gian gọi là “giồng giồng quả là món ẩm thực ít thấy dễ chưa mấy người được thưởng thức…”. Đến với Kim Bảng hãy ghé thăm Đền Trúc có Cấm Sơn xưa gọi (Cuốn Sơn), có Ngũ Đông Sơn…Tương truyền xưa kia trên núi có thứ ( cỏ Thi ) thứ cỏ chỉ mọc ở huyệt đất phát vương xưa chỉ mọc ở Trung Hoa và thời đó người ta tìm thấy có thứ cỏ đó ở núi Cấm Quyển Sơn, thuộc trấn Sơn Nam Thượng, đó là một hiện tượng cực kỳ hiếm. Trong ấn cảo của Nguyễn Huy Vinh (1770-1818) có ghi: “ …Trong lần ghé thăm núi Cấm Quyển Sơn, Kim Bảng có thư cỏ thi lệ xung vào các lễ vật tiến vua. Đó là các bụi cỏ mọc lên từ kẽ đá…Giống như bụi trúc nhỏ, lá thì tựa loài sa trúc..Cỏ thần không phải đất nào thời nào cũng có…” Đền Trúc nằm bên bờ sông Đáy dưới chân núi Cấm Quyển Sơn. Gọi là đền Trúc vì xung quanh đền là cả một rừng trúc mọc rậm rạp tạo nên vẻ đẹp hoang sơ, sơn thủy hữu tình. Ngoài ra đền Trúc hàng năm còn thường xuyên tổ chức lễ hội hoành tráng tôn vinh Anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. Chuyện xưa kể rằng: Lý Thường Kiệt trong một lần đem quân bình định phương Nam, vào một buổi chiều thủy quân đến địa phận trại Canh Dịch thì bất ngờ cuồng phong nổi lên, gió bẻ gẫy cột cờ và cuốn lá cờ bay lên đỉnh núi. Cho là điềm lạ Lý Thường Kiệt hạ lệnh cho quân sỹ dừng lại, rối cùng tướng sỹ lên bờ sửa lễ tế trời đất, cầu chiến thắng. Ông đổi tên cho quả núi đó là Cuốn Sơn (núi Cấm ngày nay), đổi trại Canh Dịch thành làng Cuốn Sơn. Lập đàn tế trong rừng trúc gần ngôi đền thờ mẹ con bà hàng nước. Đêm khuya hai mẹ con hiện lên báo mộng xin cùng đi theo phù hộ ông đánh giặc. Thắng lợi trở về Lý Thường Kiệt dừng quân lễ tạ, xin vua phong bà hàng nước là mẫu hậu, con gái là công chúa và sửa sang lại đền thờ. Sau này dân địa phương lập đền thờ ông ngay tại rừng trúc, Đền nhìn ra sông phía bờ sông sau thờ mẫu hậu và công chúa. Lễ hội đền Trúc hàng năm được tổ chức từ ngày 06 đến 10 tháng 2 âm lịch. Sau phần lễ là phần hội có hát Giậm Quyển Sơn: Bài hát Giậm tương truyền có từ thời Lý được ghi lại bằng chữ nôm. Có tên là: “Lý Đại Vương bình Chiêm sự tích diễn ca”, gồm 30 tiết mục với hơn 1000 câu thơ, múa giậm kết hợp với hát mô phỏng động tác vừa kết hợp giậm chân với chèo thuyền (vì thế mới gọi là hát Giậm). Bên hữu ngạn sông Đáy chếch về hướng Tây trên một doi đất nhô ra sông cách xa khu dân cư bên cạnh núi Ngọc đó là chùa Bà Đanh, thuộc xã Ngọc Sơn có tên là Bảo Sơn Tự, Chùa ở ghềnh sông vắng vẻ cô tịch xưa thường có cọp về cổng chùa nên càng hoang vắng, trong dân gian đã có câu: “Vắng như chùa Bà Đanh” Trong kháng chiến chùa là cơ sơ nuôi giấu cán bộ hoạt động cách mạng, là nơi ém quân cho các trận công đồn. Trong chùa thờ Đức thánh Bà một trong tứ pháp: (Pháp Vân, pháp Vũ, pháp Lôi, pháp Điện). Ngày nay cầu sắt đã được bắc qua sông Đáy nối liền chùa với quốc lộ 21a nên khách viếng thăm chùa ngày càng đông chùa Bà Đanh không còn vắng vẻ nữa.
- Ngược đường trục huyện đi Thụy Lôi, Lê Hồ, Tượng lĩnh ta đến Vực Chùa Ông cách khu du lịch Chùa Hương không xa. Đứng trên nhìn xuống ta có cảm tưởng vực như một miệng núi lửa của thời kỳ kiến tạo trái đất để lại, chùa Ông nằm bên sườn núi, được người xưa coi như một trong những: (Tiêu Tương Bát Cảnh), (Tám cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Quốc). Trong một tương lai gần tour du lịch tâm linh từ Hà Nội đến chùa Hương, qua Ba Sao, Tam Trúc của Kim Bảng Hà Nam kéo dài tới tận Bái Đính, Tràng An tỉnh Ninh Bình xẽ là một tour hấp dẫn thu hút khách du lịch hành hương, xẽ khai thác và đánh thức những tiềm năng của Kim Bảng hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước.
- Hướng tới tương lai nhân dân Kim Bảng đời trước,truyền đời sau ngọn lửa truyền thống kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai, dựng làng lập ấp, mở mang dân trí, hăng say học tập luyện đức, luyện tài đã làm nên một Cổ Bảng nổi danh trong quá khứ. Ngày nay với tinh thần cần cù, hăng say lao động sản xuất, thông minh sáng tạo, nắm bắt quy luật nhân dân Kim Bảng đã lập nên bao kỳ tích mới trong thời kỳ Công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
- Trên cơ sở phát huy tiềm năng sẵn có của quê hương : Đất đai, tài nguyên, con người . Liên tục trong nhiều năm qua Kim Bảng luôn luôn dẫn đầu trong toàn tỉnh về tăng trưởng kinh tế. Xác định đúng mục tiêu trên cơ sỏ tiềm năng sẵn có của địa phương. Huyện Kim Bảng đã tập trung mũi nhọn vào ngành sản xuất vật liệu xây dựng, đẩy mạnh thâm canh lúa và hoa màu, cây công nghiệp, phát triên chăn nuôi gia súc, gia cầm mở mang văn hóa du lịch đó là nền tảng cơ bản để Kim Bảng thực hiện các mục tiêu kinh tế văn hóa xã hội hiện nay và các năm tiếp theo. Theo số liệu các năm gần đây diện tích thâm canh lúa của huyện Kim bảng ngày càng thu hẹp với hơn năm ngàn ha canh tác lúa, hơn một ngàn ha cây màu, trong đó có hơn 200 ha cây xuất khẩu trong những năm qua toàn huyện có hơn 80 ha đất đạt giá trị hơn 80 triệu/ha, tập trung ở các xã Thụy Lôi, Ba Sao, Ngọc Sơn, thị trấn Quế. Lê Hồ v.v.. xẽ đảm bảo chắc chắn tổng sản lượng lương thực đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch khoảng hơn 80 ngàn tấn. Phát huy thế mạnh về công nghiệp và thủ công nghiệp để tăng giá trị tổng sản lượng đạt 800 tỷ đồng ngoài các cơ sở cũ , mấy năm gần đây huyện đã phát triển mở rộng thêm nhiều cụm sản xuất thủ công nghiệp mới tại Nhật Tân, Thi Sơn, Biên Hòa, Kim Bình tạo việc làm cho hàng ngàn lao động, Tổ chức nhiều khóa đào tạo nghề tại chỗ đáp ứng lao động cho các khu công nghiệp. Kim bảng ngày càng đổi mới hàng loạt các thị trấn, thị tứ sẽ được hình thành làm vệ tinh cho thị trấn Quế như : Như Ba Sao, Nhật Tân, Tượng Lĩnh… Nông thôn Kim Bảng ngày càng đổi thay tiến bộ văn minh, người dân ngày càng được chăm sóc y tế, hoạt động thể thao ngày càng phong phú, trật tự an ninh quốc phòng được triển khai sâu rộng, nhân dân tin tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo của Huyện ủy, UBND huyện…Kim Bảng vùng đất cổ của trấn Sơn Nam xưa đang bừng tỉnh, vươn mình đứng dậy thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước…
Hà Nam 16.06.2012.Lại Quang Phuc.
-
-
Cuộc thi thơ lục bát chủ đề “Tổ quốc và đạo pháp” lần thứ nhất năm 2013 do Lục Bát Việt Nam khởi xướng và phát động đã có hàng trăm tác giả trên mọi miền Tổ quốc hưởng ứng với trên bảy trăm bài dự thi.
Quanh co Yên Tử non xanh
Xa xa sóng biếc dâng thành Hạ Long.
Núi thiêng đất Phật rêu phong
Mây lành tụ khí ngàn thông gió đàn
Đôi điều về tác giả
Biết Lại Quang Phục chừng vài chục niên , nhưng mãi gần đây tôi mới được đọc thơ anh. Dáng người chắc, ân cần với bạn bè, tưởng lúc nào cũng tất bật với cuộc mưu sinh hoá ra lại chứa chất một tâm hồn thơ nhậy cảm và chỉ khi tiếp xúc với thơ ca, tôi mới hiểu thêm đôi điều về dòng họ, quê hương và tác giả.
Dòng họ Lại, vốn rất nổi danh trong lịch sử Việt Nam. Đã từng có những cuộc hội thảo khoa học về những danh nhân họ Lại, Đền thờ cụ tổ được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia.
Chùa xưa, tượng đất giấy bồi
Có phong sắc chỉ từ thời vua Lê
Trường ca Đồng Chiêm
Loại giấy chuyên dùng vào việc phong sắc của các triều đại phong kiến là sản phẩm “độc truyền” của người họ Lại.
Phù Vân –làng hoa nổi tiếng bên dòng sông Đáy nơi mệnh danh thành phố ngã ba sông- Phủ Lý thủ phủ của tỉnh Hà Nam. Từ bao đời có tộc người họ Lại sinh sống, có đền thờ ghi lại
trang trọng lời khen của chủ tịch Hồ Chí Minh: Biểu dương tinh thần yêu nước của dòng họ Lại.
Còn Lại Quang Phục trước ngày về nước làm cán bộ cho ngành du lịch, anh đã từng tu nghiệp và sau đó làm cán bộ quản lý lao động Việt Nam tại đất nước Hoa Hồng -Bulgaria xa xôi.
Những ngày xa xứ nhìn vầng trăng mà gợi bao sự nhớ thương. Vầng trăng luôn gợi cho anh nghĩ tới vẻ đẹp thiên nhiên, thơ mộng, huyền bí nơi đồng quê, xóm mạc...Có lẽ từ khi loài người phát hiện ra điện, ánh trăng có lúc bị lãng quên. Nhưng từ xưa trăng non, trăng tà…đã được gửi gắm bao ý nghĩ thầm kín về hạnh phúc, lúc chia xa, như sóng gió đại dương nhờ trăng mà muôn đời dào dạt. Trong cuộc đời có bao khoảnh khắc tưởng là mong manh, tưởng thoáng qua nhưng có lực hút neo giữ tâm hồn con người. Bắt được cái mong manh đó như có người nói:”Thơ là nhớ lại những cảm xúc đã qua, hình thành cảm xúc mới”, đó là một trong những khái niệm cơ bản của thơ. Đọc thơ Lại Quang Phục qua mấy tập trình làng, in nhà xuất bản quốc gia, xin bạn đừng vội xăm soi ,xét nét. Anh đến với thơ hồn nhiên, dung dị, và đắm say. Đó chính là con đường đi của bao thi sỹ để dẫn đến thành công…
Nam Định mùa Sen 2012
Nhà thơ Nguyễn Thế Vinh
Thành phố này là thơ
Là tiếng vó ngựa Trần gõ rền trang cổ sử
Là dấu hoa tay in trên bản đồ châu thổ
Là nỗi nhớ Vị Xuyên huyền ảo mặt gương hồ
Chiều mộng du qua ghế đá không người
Nàng chưng cất Hoa hồng Kazanlức
Ta đến tìm như ở giữa chơi vơi.