Thứ tư, 24/04/2024,


Tố Hữu (18/07/2008) 

I. Vài nét về tác giả

Nhà thơ Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành, Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Ông gia nhập Đoàn Thanh niên và được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1938. Năm 1946, ông là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:

1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;

1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam;

Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức;

Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;

Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương;

Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị

1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng cho tới

1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.

Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt 1).

Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng Ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII.

Ông mất 9h15' ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bện viện 108.

- Tố Hữu thường sáng tác với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu thường thể hiện những vấn đề lớn về Đảng, về đất nước và thường hướng đến khơi dậy niềm vui, niềm tin, hướng tới tương lai. Tuy nhiên ông không tránh khỏi sa đà vào việc ca ngợi một chiều Đảng, Nhà nước. Nhiều lúc để phù hợp với tình hình, thơ Tố Hữu trở thành những lời kêu gọi, hiệu triệu mà nhiều khi cảm xúc không theo kịp, khiến tác phẩm mất hết cả chất thơ.

 

- Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị. Ông có khả năng 'thơ hoá' các vấn đề chính trị 'Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình.' (Xuân Diệu. Máu và Hoa, con đường của nhà thơ Tố Hữu (tiếng Pháp). Liên hiệp các nhà xuất bản, Paris, 1975)

 

- Thơ Tố Hữu, dễ cảm, dễ tiếp thu, nặng về tính truyền thống hơn là sự tìm tòi đổi mới theo hướng hiện đại hoá. Tố Hữu rất thường dùng các biện pháp tu từ quen thuộc trong ca dao dân ca, và nhiều hình ảnh ước lệ cũng rất quen. Giọng thơ thường là giọng tâm tình, ngọt ngào, ảnh hưởng nhiều bởi dân ca, nhất là dân ca Huế.

 

- Thơ Tố Hữu ít có sự gọt giũa về nghệ thuật, chủ yếu là thể hiện tình cảm, với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình. Đây là một nét thơ đặc trung của Tố Hữu, có điều lắm khi 'ít gọt giũa' cũng là nhược điểm chí mạng của ông.

 

Các tập thơ đã xuất bản:

 

Từ ấy (1946)

Việt Bắc (1954)

Gió lộng(1961)

Ra trận (1962-1971)

Máu và hoa (1977)

Một tiếng đờn (1992)

Ta với ta (1999) ...

 

Giải nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập thơ Việt Bắc)

Giải thưởng văn học ASEAN (1996)

Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật (đợt 1, 1996)

 

 II. Thi phẩm lục bát

 

Cánh chim không mỏi

 

Chiều nay gió lặng, nắng hanh
Mây hồng trắng nõn, trời xanh, Bác về
Sông hồng nắng rực bờ đê
Nắng thơm rơm mới, đồng quê gặt mùa

Bác đi, muôn dặm đường xa
Hôm nay tuyết lạnh, nay vừa nắng lên
Bác về, tóc có bạc thêm?
Năm canh, bốn biển, có đêm nghĩ nhiều?

Hỡi Người, tim những thwong yêu
Cánh chim không mỏi sơm chiều vẫn bay
Chim kêu tung cánh chim bay
Ba mươi sáu triệu chim bầy gọi nhau

Chim kêu ríu rít trên đầu
Mùa cam đương ngọt địa cầu của ta
Giá sương đwogn hẹn mùa hoa
Nắng xuân từ Mạc-tư-khoa đã về.

Sông hồng nắng rực bờ đê
Nắng thơm rơm mới, đồng quê gặt mùa
Hoa ơi, con gái của cha
Cha nâng con nhé, làm hoa mừng Người.

Bác về, vui đó, con ơi!
Bác hôn các cháu, bác cười với dân
Ngày vui vui những hai lần:
Bác về, mang cả mùa xuân lại nhà.

                              (12-1960)

                     (Tập Lộng gió - 1961)

 

 

 

 

Lời ru    

 

Con ong làm mật, yêu hoa
Con cá bơi, yêu nước; con chim ca, yêu đời
Con người muốn sống, con ơi
Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.

Một ngôi sao, chẳng sáng đêm
Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng.
Một người đâu phải nhân gian ?
Sống chăng, một đống lửa tàn mà thôi!

Núi cao bởi có đất bồi
Núi chê đắt thấp núi ngồi ở đâu ?
Muôn dòng sông đổ biển sâu
Biển chê sông nhỏ, biển đâu nước còn ?

Tre già yêu lấy măng non
Chắt chiu như mẹ yêu con tháng ngày
Mai sau con lớn hơn thày
Các con ôm cả hai tay đất tròn.

 

 (Lộng gió - 1961)

 

 

 

Đêm thu quan họ

 

Lặng nghe quan họ đêm thu
Mênh mang mây nước, thẳm sâu tình người
Đắm say gió gọi trăng mời
Vấn vương làn mắt, nụ cười duyên quê
Người ơi! Người ở đừng về
Buâng khuâng giã bạn, tái tê mạn thuyền
Ai về, ai nhớ, ai quên
Mình về, đến hen lại lên, cùng người.


(Đêm thu Bắc Giang 14-10-1986)

(Một tiếng đờn - 1992)

 

 

 

         Luy Lâu

 

Con sông Dâu chảy về đâu
Mà lơ thơ... đến Luy Lâu lại dừng ?
Cho ta nhớ thuở Bà Trưng
Chiến thuyền giấu bến, cây rừng giấu binh
Luy Lâu, ngạo nghễ cung đình
Tàn canh tiệc rượu... Giật mình sấm ran
Bốn bề nối lửa Văn Quan
Ba quân gươm giáo ngập tràn thành đô
Chém đầu Tô Định, giặc Ngô
Xác phơi, 99 đống mồ cỏ hôi.
Hai nghìn năm cũ qua rồi
Sông Dâu nay đã cát bồi dòng xưa
Luy Lâu còn đó... Gió mưa
Vẫn nghe phần phật ngon cờ Trưng Vương.


                                (13-10-1986)

                         (Một tiếng đờn - 1992)

 

 

Nhớ Chế Lan Viên

 

Nhớ Anh, tìm đến thăm nhà
Ngổn ngang phố chợ, ai là tâm giao
Xóm quê Bà Quẹo, lối vào
Chế ơi, ngõ vắng, đâu nào vườn lan!
Đơn xơ nhà nhỏ hai gian
Đôi cây chuối mật, một giàn mướp hương.
Thương Anh, biết mấy là thương
Một đời thơ những vấn vương lẽ đời...
Mất còn, thôi thế, Chế ơi!
Tĩnh Viên mà động lòng người nghìn năm
Tiếng đàn xưa gọi tri âm
Yêu sao, bạn trẻ viếng thăm sáng này!


(Hè 1990)

 

Bầm ơi

 

Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm...
Bầm ơi có rét không bầm!
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!
Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền.
Nhớ thương con bầm yên tâm nhé
Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân.
Con đi xa cũng như gần
Anh em đồng chí quây quần là con.
Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em.
Bầm ơi, liền khúc ruột mềm
Có con có mẹ, còn thêm đồng bào
Con đi mỗi bước gian lao
Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm!
Bao bà cụ từ tâm như mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra.
Cho con nào áo nào quà
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi.
Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cụng nghe thầm tiếng con...


                         (1948)

                (Việt Bắc - 1954)

 

 

Kính gửi cụ Nguyễn Du

 

Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều...
Hỡi lòng tê tái thương yêu
Giữa dòng trong đục, bánh bèo lênh đênh.

Ngổn ngang bên nghĩa bên tình
Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao?
Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào
Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường!

Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương:
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng...
Nhân tình, nhắm mắt chưa xong
Biết ai hậu thế, khóc cùng Tố Như?

Mai sau, dù có bao giờ...
Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay!
Tiếng đàn xưa đứt ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người

Trải bao gió dập sóng dồi
Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha
Đau đớn thay phận đàn bà
Hỡi ôi, thân ấy biết là mấy thân!

Ngẫm xem qua kiếp phong trần
Đời vui nay đã nửa phần vui đây.
Song còn bao nỗi chua cay
Gớm quân Ưng Khuyển, ghê bầy Sở Khanh.

Cũng loài hổ báo ruồi xanh
Cũng phường gian ác hôi tanh hại người!
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời nghìn thu.

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
Hỡi người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!

Sông Lam nước chảy bên đồi
Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân...


(1-11-1965)

 (Ra trận - 1972)

 

 

 

 

Việt Bắc

 

-   Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.

- Nước trôi nước có về nguồn
Mây đi mây có cùng non trở về?
Mình về, ta gửi về quê
Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai
Nâu này nhuộm áo không phai
Cho lòng thêm đậm cho ai nhớ mình
Trâu về, xanh lại Thái Bình
Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi.

- Nước trôi, lòng suối chẳng trôi
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
Ðá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhòa.
Nứa mai mình gửi quê nhà
Nước non đâu cũng là ta với mình
Thái Bình đồng lại tươi xanh
Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui...

- Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi, ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?

- Ðường về, đây đó gần thôi!
Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao chẳng khuất non xanh
Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường.
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời
Mái trường ngói mới đỏ tươi.
Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng
Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa Ðông Xuất, mía đường tỉnh Thanh
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Ðịnh, lụa hàng Hà Ðông
Áo em thêu chỉ biếc hồng
Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi
Còn non, còn nước, còn trời
Bác Hồ thêm khỏe, cuộc đời càng vui!

- Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người...

- Lòng ta ơn Ðảng đời đời
Ngược xuôi đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa nước non Hồng
Còn đây ơn Ðảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Ðời đời ơn Ðảng càng sâu càng nồng.

Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.

 

 Tố Hữu

 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
Các bài khác: